Bài giảng: Tình cảnh lẻ loi của kẻ chinh phụ – Cô Trương Khánh Linh (Thầy )
Đề bài: Phân tích đoạn trích Nỗi cô đơn của người chinh phụ của Đặng Trần Côn.
Đặng Trần Côn (không rõ năm sinh, mất) người làng Nhân Mục, tên nôm là làng Mộc, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Về sáng tác, ngoài tác phẩm chính là Chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài thơ chữ Hán. Theo các tài liệu lịch sử, vào đầu đời Lê Hiển Tông, xung quanh kinh thành Thăng Long đã nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Triều đình cử binh đại bại, nhiều trai tráng phải từ biệt người thân lên đường chinh chiến. Đặng Trần Côn xúc động trước những đau thương, mất mát của con người, đặc biệt là những người vợ của người lính trong chiến tranh, đã viết Chinh phụ ngâm khúc. Bài ngâm ngâm này gồm 476 câu thơ theo thể đoản cú (các câu thơ có độ dài không bằng nhau).
Tác phẩm đã được dịch ra chữ Nôm, và hiện chưa rõ tác giả của bản dịch. Có người cho rằng đó là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Lại có người cho rằng Phan Huy Ích là thông ngôn của vợ Chỉnh.
Đoạn trích dưới đây, thuộc thể hiện dịch, nói về tình cảm, tâm trạng của người chinh phụ phải sống cô đơn, mòn mỏi lâu ngày khi chồng đi chinh chiến, không tin tức, ngày về không biết.
Từ khi tiễn chồng nơi “xa cách mưa gió”, người chinh phụ trở về sống trong cảnh thương nhớ cô đơn. Ngày và đêm, sau khi công việc đã ổn định ở mọi phía, kẻ chinh phục
Bước trên hiên yên tĩnh từng bước,
Ngồi trên màn thưa mời gọi một phen.
Bên ngoài bức màn không nói,
Trong rèm hình như có ánh đèn?
Bốn câu ca dao bảy sáu tám với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt trầm buồn càng khắc sâu thêm tình cảnh lẻ loi, hiu quạnh. Người xưa sóng đôi, nay “âm thầm gieo bước” dưới mái hiên vắng. Ngày nào tôi cũng bàn công việc với chồng bên cửa sổ, giờ đây tôi đã hạ xuống kéo lên bao lần mong ngóng mà chẳng thấy con chim báo tin vui đâu. Ban ngày là thế, nhưng ban đêm, tôi không ngủ được, một mình đối mặt với ánh đèn khuya. Tình cảnh của người chinh phụ quá lẻ loi, đơn độc. Ngày được háo hức chờ đợi. Đêm dài tĩnh mịch, tự biết lòng mình, hoa đèn kia rốt cuộc vẫn có ngọn lửa. Riêng trái tim này với bóng hình lạnh lùng.
Thời gian dài như năm tháng,
Nỗi buồn như biển xa.
Hai câu lục bát, một tả thời gian, một tả nỗi buồn. Cả hai câu đều mang nghệ thuật so sánh. Trong cảnh lẻ loi ấy, một giờ dài bằng một năm, như người xưa thường so sánh “Nhất nhật bất kiến như hề”, Xuân Quỳnh sau này đã tâm sự “Một ngày không gặp nhau/Biển bạc thương nhớ”. . Thời gian chờ đợi càng lâu thì nỗi buồn “như biển xa” càng lớn. Tình hình đã vượt qua tâm trạng. Đó là tâm trạng nhớ nhung của người chinh phụ gửi cho chồng nơi phương xa. Nỗi nhớ thật chân tình.
Gửi gió đông này có tiện không?
Nghìn vàng xin gửi về non Yên
Non Yên dẫu chưa đến miền,
Nhớ anh thăm thẳm đường về trời.
Bốn câu thơ trên là lời tâm sự của người vợ với chồng. Nhưng chim ác là không có thư để hỏi. Rồi gửi lời chia buồn vào gió. Nhưng gửi theo gió đông, liệu gió có mang lời thì thầm bên tai? Biết anh ở đâu trên chiến trường? Thôi thì tấm lòng yêu quý quân tử xin gửi đến nơi xa xôi như Đậu Hiền đời Hậu Hán đánh đuổi giặc Bắc Thiên Vũ đến núi Yên Nhiên, bởi vì:
“Nay Hán đã xuống đóng Bách Thành,
Mai Hồ đến Thanh Hải chụp hình”.
Đời chiến sĩ là thế, “ôm yên, chôn gối trống,/ Năm vùng cát ngủ với rêu xanh”, chưa nói đến đời chiến sĩ, mấy ai đi về. Tình yêu và kỷ niệm của cô là như thế. Nhưng:
Bầu trời thật sâu thẳm và không thể đo lường được,
Thật là một kỉ niệm đau thương về anh.
Cảnh buồn, người thiết tha,
Cành sương đượm tiếng mưa phun.
Dù là “Trời” thì Trời cũng khó hiểu được tình yêu và nỗi nhớ của kẻ chinh phục. Hai chữ “thâm sâu, đau đớn” càng làm tăng thêm sự ngu dốt, tàng hình của Chúa mà chỉ có người trong cuộc (người chinh phục) mới cảm nhận rõ được nỗi lòng của họ. Khung cảnh thật buồn, ngay cả cây cỏ và tiếng côn trùng cũng đau lòng. Và tình yêu tha thiết.
Thể thơ ca dao phù hợp với thể tự sự, trong đoạn trích, bản dịch sử dụng phép so sánh, lặp, so le một cách tự nhiên làm tăng giá trị nội dung.
Đọc đoạn trích, người đọc không khỏi ngạc nhiên vì đó chỉ là tả cảnh lẻ loi, bộc lộ tâm trạng khát khao được yêu của kẻ chinh phụ. Nhưng nếu suy nghĩ sâu xa hơn, đoạn trích thể hiện lòng căm thù chiến tranh. Chiến tranh đã chia cắt tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của nhiều thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ, có lẽ vì thế mà tác phẩm được người đương thời đánh giá cao. Nhiều người còn dịch Chinh phụ ngâm ra thơ Nôm (tức thơ Việt Nam) để việc ngâm vịnh được truyền bá rộng rãi hơn. Diễn Nôm hiện nay là bản dịch thành công nhất.
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 10:
Các bài giải bài tập lớp 10 sách mới:
tinh-canh-le-lộ-dân-dân-chinh-phu.jsp
Giải bài tập lớp 10 theo sách mới môn học
Bạn thấy bài viết Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất – Ngữ văn lớp 10 có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất – Ngữ văn lớp 10 bên dưới để Blog Giới Trẻ có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: gioitre.biz của Blog Giới Trẻ
Nhớ để nguồn bài viết này: Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất – Ngữ văn lớp 10 của website gioitre.biz
Chuyên mục: Văn Học