Cảm nhận khổ 1 Việt Bắc bao gồm dàn ý chi tiết cùng 20 bài văn mẫu hay nhất sẽ giúp những em cảm nhận rõ hơn tình cảm đặc biệt đầy lưu luyến, quyến luyến không muốn chia tay của người dân Việt Bắc với những người lính
Đoạn 1 bài thơ Việt Bắc là khúc hát tâm tình, sâu lắng thể hiện tình cảm tâm thành và dòng tâm trạng quyến luyến, lưu luyến của kẻ ở, người đi trong cảnh chia xa. Với bài Cảm nhận khổ 1 Việt Bắc hay nhất dưới đây sẽ giúp những em cảm nhận rõ nét hơn những tình cảm ấy, từ đó thấy được tài năng của tác giả trong việc bộc lộ xúc thông cảm qua ngôn từ, hình ảnh.
Đề bài: Viết bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài Việt Bắc
Viết bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài Việt Bắc
Dàn ý cảm nhận khổ 1 bài Việt Bắc
1. Mở bài cảm nhận khổ 1 bắc
Tố Hữu là một trong những thi sĩ tiêu biểu cho thiên hướng thơ trữ tình và chính trị.
– Dẫn dắt vào bài tám câu thơ cần tìm hiểu.
2. Thân bài cảm nhận 8 câu đầu bài Việt Bắc
a. Bốn câu thơ mở đầu là lời của Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, tình nghĩa.
– Mở đầu là nghi vấn tu từ. Trong nghi vấn này, “Mình” là chỉ người ra đi, “Ta” là chỉ người ở lại.
+ “Mười lăm năm ấy” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là thời gian chỉ độ dài gắn bó thương nhớ vô vàn giữa người đi kẻ ở. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt.
– Hai câu sau là lời nhắc nhở chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha. Câu thơ có hai hình ảnh “núi” và “nguồn” là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Đó là lời nhắc nhở, dặn dò kín đáo rất đỗi tâm thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mệnh, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội quên.
b. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi thương nhớ, quyến luyến:
– “Bâng khuâng” tức là nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lộn lạo (buồn vì phải xa VB, vui vì được trở lại quê hương của mình) mà buồn nhiều hơn vui. “thấp thỏm” là từ láy diễn tả tâm trạng xúc cảm day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng, quyến luyến không muốn chia xa .
– Buổi chia tay ấy có hình ảnh “Áo chàm đưa buổi phân ly”. “Áo chàm” là màu áo nghèo khổ, bình dị của người dân Việt Bắc, là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người Việt Bắc. Đó là những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng luôn “mặn mòi lòng son” thủy chung, mặn nồng.
– Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay” đầy tính chất biểu cảm. “Biết nói gì ngày hôm nay…” không phải là không có gì để nói. Không nói được vì xúc động nghẹn ngào không thốt được nên lời. Những lời không nói ấy có nhẽ đã nằm hết trong ba chữ “Cầm tay nhau”. “Cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương kết đoàn. “Cầm tay” là đã đủ nói lên bao xúc cảm trong lòng rồi. Mặt khác, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng.
c. Nghệ thuật:
- Thể thơ lục bát mặn mòi bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra nhạc điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều giải pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, nghi vấn tu từ).
- tiếng nói trong sáng, nhuần nhuỵ, và có rất nhiều nét cải cách (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình)
3. Kết bài
Cảm nhận về 8 câu đầu bài Việt Bắc
- Nêu lên cảm nhận sau khi vừa tìm hiểu 8 câu thơ trên
- Kết luận và đánh giá bao quát 8 câu thơ đầu
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc ngắn gọn
Tám câu đầu của bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đó là những nỗi niềm của tác giả là những nhân vật trữ tình nên ông luôn làm cho bài thơ của mình xoay theo hướng gọi mời, hội thoại đầy ý nghĩa. Xây dựng một cách có ý nghĩa, chí hướng và chung một phía.
Mở đầu bài thơ là một lời đối đáp đầy ý nghĩa, thân tình của người Việt được sử dụng nhiều và uyển chuyển trong đời sống hằng ngày:
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…
Mở ra một thời kỳ khó khăn vất vả nhưng những người đội viên của chúng ta vẫn xây dựng cho mình một chí hướng, một ý tưởng và cùng một mục đích. Đó chính là nét đẹp trong những người đội viên dưới ngòi bút của Tố Hữu.
Tiếp theo 4 câu thơ sau là lời đối đáp của những đội viên như một đôi tình nhân. Được ví bằng những cặp từ xưng hô mình ta đó là cách hoán đổi cho nhau và cặp từ đó ta mình đều là một nhưng được tác giả nhấn mạnh và tạo thành những cặp từ đối đáp vô cùng ý nghĩa và mang đậm tình cảm và gắn bó hơn.
nhường như ở 8 câu thơ này, mang đậm những tình cảm bâng khuâng, quyến luyến của chính tác giả. Cộng với những từ ngữ ý nghĩa linh hoạt làm gắn bó thêm thú vị hơn giữa người ở và người đi.
Với tác giả những đội viên được khắc họa rất rõ nét, mang đậm những nét gì đó rất riêng. Làm cho người đọc phải cảm động, chìm vào một tình cảm vô cũng sâu lắng mà ngưỡng mộ trước những tháng ngày vất vả trong kháng chiến. Đó là những hình ảnh, những tình cảm vô cùng đẹp và mang đậm tình yêu đối với quê hương quốc gia.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc ngắn gọn
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 1
Tố Hữu là thi sĩ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho thơ ca cách mệnh Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người cách mệnh. Thơ ông mặn mòi tính dân tộc trong nội dung và phương thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. “Việt Bắc” là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống biệt” của Tố Hữu.
Mặc dù là đề tài cũ, nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân li:
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi:
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả mở đầu bằng một nghi vấn mang âm hưởng ca dao, tình yêu: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” là hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. “Về” gợi tới sự chia li, đó là sự chia li của người ra đi và người ở lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì “mình” đứng ở đầu câu, còn “ta” đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa “ta” và “mình”. Nỗi niềm gợi lên qua nghi vấn ấy của người ở lại là nỗi nhớ, tình cảm của người ở lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ là một từ “nhớ”, nó làm cho “mình” và “ta” nhường như được xích lại sắp nhau hơn. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều, nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một thời kháng chiến. “Mười lăm năm ấy” gợi tới một quãng thời gian lao khăn, một thời đau thương, mất mát. Tuy vậy, nhường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng lại trong câu thơ chỉ còn là tình cảm “thiết tha mặn nồng”. Đó chính là sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong “mười lăm năm ấy” giữa “ta” và “mình”. Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.
tới câu thơ thứ ba cũng là một nghi vấn. nghi vấn: “Mình về mình có nhớ không” cũng có sự lặp lại sắp giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa “ta – mình” và nỗi nhớ nhường như không còn chỉ hướng tới “ta”, mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian “núi rừng” và “sông nguồn”. nghi vấn gợi về không gian có “núi”, có “nguồn” ở núi rừng Việt Bắc. Đây chính là không gian thân thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại không còn là không gian vô hồn, vô cảm mà là không gian chứa đầy kỉ niệm, nó góp phần tạo nên tình cảm cho người ra đi.
Ở trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Sự đan xen giữa những hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính là mong muốn của người ở lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người ở lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu thị trực tiếp qua động từ “nhớ” xuất hiện nhiều lần ở khổ thơ, càng về cuối thì từ “nhớ” xuất hiện càng nhiều đã thể hiện cường độ nhớ ngày một tăng và nó đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó là âm hưởng thương nhớ, ân tình tha thiết.
Bốn câu thơ đầu chỉ với hai nghi vấn, nhưng chủ yếu là để giãi bày tình cảm và để mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó có sự gắn bó khăng khít trong một thời kháng chiến và một vùng kháng chiến. Để rồi từ đó, người ra đi đáp lại sức ở lại bằng bốn câu thơ:
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…
Người ở lại đặt ra nghi vấn nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời nghi vấn đó mà thay vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, quyến luyến trong buổi chia tay. Ấn tượng ban đầu đã tác động tới người ra đi: “Tiếng người nào tha thiết bên cồn”. “người nào” là đại từ không xác định. “người nào” có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, thân thuộc với người ra đi – một con người cụ thể xuất hiện “bên cồn” trong buổi chia li. “người nào” có thể là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra đi. Dù hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động tới người ra đi là âm thanh tiếng nói tha thiết – đó chính là âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. Và âm thanh đó nhường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình và âm thanh đó gọi về mối tình keo sơn gắn bó thân thiết giữa người ở lại với người ra đi. Chính âm thanh đó đã khiến cho người ra đi “Bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi”.
Câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài. “Trong dạ” thì “bâng khuâng” còn hành động bên ngoài biểu hiện sự “thấp thỏm” thấp thỏm của người ra đi, nhưng lại có sự tương đồng trong xúc cảm và hành động. Chính vì xúc cảm “bâng khuâng” thì mới có hành động “thấp thỏm” đó được.
Trong cảm nhận của người ra đi, một hình ảnh bình dị, thân thuộc thường xuất hiện trong cuộc sống đời thường đó là hình ảnh “áo chàm”. Hơn thế nữa chiếc “áo chàm” gợi tới sắc màu dai sức khó phai. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” để chỉ người dân Việt Bắc và bởi vậy nói “áo chàm đưa buổi phân li” là nói về cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mệnh. Mượn hình ảnh “áo chàm” nhường như tác giả muốn nói tới tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người dân Việt Bắc với người đội viên cách mệnh. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi chính là hành động “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…”.
Trước tiên là hành động “cầm tay nhau” là hành động thân thuộc và rất đẹp của những người nào khi chia li, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì vậy không nói lên lời. Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường nhật bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, quyến luyến. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 2
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ, hiệp nghị Giơnevơ được ký kết, tháng 10 năm 1954, những cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc, khắc họa lại cuộc chia tay lịch sử với những tình cảm thủy chung son sắt. Tình cảm ấy được thể hiện qua những câu thơ sau:
“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Đoạn thơ tràn đầy một nỗi nhớ tưởng như không thể kìm nén được, cứ trào ra theo ngòi bút và tuôn chảy thành những dòng thơ. Có tới bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ tám câu chắc hẳn nỗi nhớ ấy phải thật da diết và sâu nặng. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mệnh của người đã từng gắn bó sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm ấy, là nỗi nhớ của tình nghĩa, của ân tình thủy chung.
Khúc hát dạo đầu đã nhắc tới nỗi nhớ của đạo lí Việt Nam, cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ và người ra đi trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ quê hương cách mệnh bằng tiếng nói ngọt ngào, tha thiết của khúc hát đối đáp giao duyên nam nữ trong dân ca. Khúc hát ấy thấm nhuần đạo lí ân tình thủy chung:
“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.
Nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu gợi ta nhớ tới một câu thơ trong Truyện Kiều:
“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Việt Bắc đã hỏi người cán bộ về xuôi có còn nhớ mình không? Có còn nhớ những tình cảm thiết tha, mặn nồng trong suốt khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Nhìn cây còn có nhớ núi, nhìn sông còn có nhớ tới nguồn? Bốn câu thơ nhưng thực chất là hai nghi vấn tu từ. Lời của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi để nói lên đạo lí Việt Nam truyền thống vốn là bản tính tốt đẹp của dân tộc ta. Không chỉ nói lên mà chính là nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chính mình bởi vì cái đạo lí ấy thiêng liêng lắm, quý giá lắm, phải giữ gìn và phát huy.
Sâu nặng biết bao trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, ân tình biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có tới bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” hòa quyện vấn vít cùng chữ “ta”, khiến cái đạo lí ân tình Việt Nam đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ Việt Bắc, trở thành chủ đề lớn của tác phẩm.
Sau khúc hát mở đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ của người ra đi và cả người ở lại:
“Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Có âm thanh da diết và màu sắc mặn mòi thủy chung, có bước chân thấp thỏm và những cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi mang theo nỗi niềm luyến lưu cho người ở lại. “Tiếng người nào” không phải là nghi vấn, cũng không phải là đại từ phiếm chỉ mà đó chính là cách nói thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi”. “Bâng khuâng” vì “đi không nỡ”, nhưng “thấp thỏm” vì ở cũng chẳng đành bởi lẽ Việt Bắc đã trở thành ký ức, thành tình yêu, thành tâm hồn:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ởKhi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Từ láy bâng khuâng, thấp thỏm được Tố Hữu sử dụng rất tinh tế ở câu thơ này. Nó thể hiện được nỗi niềm, được tâm trạng và cả những đi lại trong xúc cảm, để rồi hình ảnh tiếp theo xuất hiện là chiếc áo chàm qua thủ pháp hoán dụ gợi tả con người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Màu áo chàm là một hình ảnh đầy ý nghĩa, đó là màu áo của Việt Bắc mặn mòi, son sắt như chính lòng thủy chung của con người nơi đây. Màu áo ấy nhắc nhở người ra đi nhiều ký ức khó phai nhòa.
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay” mang một trị giá biểu cảm vô cùng lớn. “Cầm tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần thanh minh, vì trong lòng họ tràn ngập nỗi thương nhớ nên không biết nói điều gì trước, điều gì sau, điều gì nên giãi bày, điều gì nên giấu kín trong tim. Cho nên chẳng “biết nói gì” chính là nói lên rất nhiều tấm lòng thương nhớ. Câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến, làm ta liên tưởng tới buổi tiễn đưa của người chinh phu và chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:
“Bước đi một bước, giây giây lại ngừng”
Trong màn đối đáp giao duyên của cuộc chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã để cho người ở lại lên tiếng trước. Điều này không chỉ hợp lý, tế nhị mà còn cần thiết cho sự phát triển mạch thơ trong cả bài thơ.
Bằng việc sử dụng đại từ “mình – ta” cùng thể thơ lục bát, Tố Hữu đã tái tạo cuộc chia tay lịch sử của Việt Bắc và người đội viên cách mệnh với biết bao ân tình, chung thủy. Con người dễ cộng khổ nhưng khó đồng cam, Việt Bắc ra đời chính là lời nhắc nhở tình nghĩa gắn bó cùng đạo lý tri ân muôn thuở của dân tộc.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 3
Tố Hữu là thi sĩ tiêu biểu cho thiên hướng thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc đã tái tạo niềm thương nỗi nhớ, cũng chính là niềm trằn trọc chung của đồng bào ta trong lần chia tay lịch sử.
Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những gì là bản sắc, là những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo trị giá của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn học lớn từ trước cho tới nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn phương thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề hiện thực đời sống cách mệnh nóng bỏng liên quan tới vận mệnh dân tộc, những tình cảm chính trị có sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm và đạo lí của dân tộc, khát vọng và ý chí của một dân tộc. Về phương thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tượng chuyển nghĩa, cách diễn đạt sắp với ca dao dân ca). nếu như hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “mặn mòi bản sắc dân tộc”.
Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại, khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội tình nghĩa, thể hiện tâm trạng thương nhớ, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc dành cho người về xuôi. Ở đây, thi sĩ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp kiểu dân gian:
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
quang cảnh chia tay quyến luyến giữa kẻ ở và người về. Cách xưng hô “mình – ta”: thân tình sắp gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Cách xưng hô “mình – ta” : thân tình sắp gũi như trong ca dao. Điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc tình nghĩa.
Người ở lại đặt nghi vấn tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong người ra đi những kỷ niệm về ” mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho tới tháng 10.1954, là mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. có nhẽ vì vậy nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã nghĩ rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
“Mình về mình có nhớ không?Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Lại một nghi vấn tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy cây hãy nhớ tới núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ tới suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà tâm thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mệnh, “Quê hương cách mệnh dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của thi sĩ Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. từ đó thi sĩ cũng nhắc nhớ những thế hệ con cháu phải biết hướng về tông tích, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
Hai nghi vấn đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi nhớ về không gian: sông, núi, nguồn. Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người lính.
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…
Bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mệnh về xuôi: tâm trạng bâng khuâng, thấp thỏm đầy lưu luyến, quyến luyến của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.
Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “thấp thỏm” thể hiện sự không yên tâm trong dạ, không nỡ rời bước. Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân yêu giản dị. Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy xúc cảm. Không khí buổi chia tay thân tình, sắp gũi, quyến luyến không muốn chia xa.
Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới phương thức những nghi vấn: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mệnh, nhớ thiên nhiên Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…
nếu như như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ “người nào” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. người nào có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất sắp cách nói của ca dao: “Nhớ người nào bổi hổi bổi hổi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong trị giá biểu cảm của từ “người nào”. Một chữ “người nào” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc tới chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mệnh, đối với người miền xuôi. Một chữ “người nào” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hai từ láy “bâng khuâng” và “thấp thỏm” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại ngừng” để rồi “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”. Không biết nói gì phải chăng là vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ơn nghĩa, sắt son không thể nào sử dụng ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của yêu thương kết đoàn. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để tương đối ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, tình nghĩa sẽ ấm mãi như tương đối ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. từ đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ơn nghĩa, thủy chung, son sắt.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mệnh. Từ xưa tới nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. nếu như sử dụng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa thi sĩ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là phương thức diễn ý thân thuộc trong ca dao dân ca.
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm ý thức dân tộc. không những thế tiếng nói là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là tiếng nói. tiếng nói thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu lứa đôi.
Tính dân tộc về mặt phương thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :” Nhìn cây nhớ núi, nhìn song nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc tình nghĩa nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên phương diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mệnh; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mệnh hòa nhịp và tiếp nối truyền thống ý thức, tình cảm đạo lý dân tộc.
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mệnh, Tố Hữu đã viết nên một bản tình khúc, anh hùng ca mặn mòi bản sắc dân tộc. tình nghĩa sâu nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách mệnh trong thơ Tố Hữu là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, ơn nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc là minh chứng cho sự thành công của thơ Tố Hữu trong việc phối hợp hai yếu tố: cách mệnh và Dân tộc trong phương thức đẹp đẽ của thơ ca. Tính dân tộc là một trong những đặc điểm vượt trội làm nên phong cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang đậm hồn thơ của thời đại cách mệnh.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 4
Tố Hữu là một trong những thi sĩ trữ tình chính trị. Vừa tham gia đương đầu nên thơ ông dành rất nhiều tình cảm cho con người và lý tưởng sống của cách mệnh Việt Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” là bài thơ thấm đượm hồn thơ của Tố Hữu và là bản hùng ca về kháng chiến chống Pháp.
Tác phẩm được viết nhân sự kiện những cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rồi chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô, sau hiệp nghị Giơnevơ được ký kết thành công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy yêu thương, thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly quyến luyến ấy được khắc họa trung thực, sinh động và xúc động của 8 cầu thơ đầu:
“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồnTiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”.
Theo lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng chiến chống Pháp, là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, được viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Đây là khu căn cứ địa kháng chiến, được Đảng và Chính phủ thành lập từ năm 1940. Chính ở nơi đây, nhân dân Việt Bắc và cán bộ đội viên đã trải qua 15 năm gắn bó tình nghĩa, keo sơn, từ 1940 tới 1954.
Sau khi quân ta hạ gục quân giặc để làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ vẻ vang, rúng động toàn cầu, thì tới tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Cảnh và người trong buổi chia ly có 1-0-2 ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về những năm tháng chiến tranh gian khổ mà đầy tình nghĩa của quân và dân.
“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một nghi vấn tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” ở đây tiết lộ cho độc giả thấy hoàn cảnh để đưa tới nỗi niềm của người ở lại. Đó là đang tiễn người đi về nhà. Chữ “mình” và “ta” được sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện, dù mình và ta có cách xa nhau bao nhiêu thì vẫn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” . nhường như, câu thơ mang dáng dấp nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao là tình”. Nhưng nếu như như Kiều là tình yêu thì ở đây là tình đồng chí, đồng bào trong một thời kháng chiến đầy gian lao, khốc liệt. 15 năm với biết bao đau thương mất mát, giờ đây chỉ còn là tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm là quãng thời gian có thể ví như là ¼ đời người. Người ở và người đi đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đã cùng vào sinh ra tử. vì vậy, nói chia ly sao mà xót xa tới thế!
tìm hiểu 8 câu đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của người dân Việt Nam dành cho nhau trong gian khổ. nhường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con người càng yêu mến nhau, đùm bọc chở che cho nhau nhiều hơn. Chính vì vậy, câu sau tác giả lại tiếp tục thêm nghi vấn tu từ: “Mình về mình có nhớ không”. Giờ đây, mình và ta đã hòa thành một. Nỗi lòng của người ở cũng như của người đi, tất cả đều là nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không chỉ ngừng lại ở nội tâm mà lan rộng ra cả núi rừng, sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của người ở lại với người đi rằng, sau này dù đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì cũng hãy nhớ tới núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn chiến khu này. Đồng thời cũng vừa là lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.
Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động mô tả hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động trong tâm tưởng. Nhìn là đang nói về hiện tại, tương lai. Nhớ là nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù người ở và người đi tương lai có thế nào thì vẫn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm hồn người và cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta có thể cảm nhận được tấm lòng trung thực, tình cảm tâm thành của người dân miền núi dành cho đội viên. Dù nghèo khổ ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn dành cho những cán bộ miền xuôi một tình cảm da diết và mãi vững bền qua năm tháng.
nếu như như bốn câu thơ đầu lột tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi thì những câu thơ sau nói lên tình cảm đáp lại của đội viên, cán bộ với người chiến khu:
“Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Người đội viên định bước đi, nhưng bỗng nghe tiếng “người nào tha thiết” khiến cho họ bước đi mà trong lòng bâng khuâng, thấp thỏm. thi sĩ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ nhưng vẽ lên được sự quyến luyến quyến luyến không muốn chia xa của cả người ở lẫn người đi. Chỉ có những người nào gắn bó với nhau lắm, yêu nhau lắm thì mới khó lòng chia xa tới tương tự. Bởi cả hai người ở và người đi đều biết, chiến tranh sẽ vẫn còn tiếp tục. Sự gặp lại biết tới bao giờ. bởi vậy, họ càng thấy nuối tiếc xót xa. Giống như chân lý mà Chế Lan Viên từng khẳng định: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”. những đội viên, cán bộ đáp lại lời của bà con dân bản đó là bà con và đất trời chiến khu đã trở thành một phần trong tâm hồn họ. Tác giả sử dụng 2 cụm từ láy “bâng khuâng” và “thấp thỏm” càng nhấn mạnh thêm sự day dứt, lưu luyến của người đi. Người đi là những cán bộ về xuôi. Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi lo lắng và nhung nhớ. Họ thương người dân chiến khu. Họ lo lắng rồi đây, trong những năm tháng tiếp theo, người dân nơi đây sẽ thế nào. Thật sự, chưa nơi đâu mà tình cảm quân dân lại thắm đượm tới như thế!
Hình ảnh buổi chia ly đầu nước mắt, nghẹn ngào con tim diễn ra đội viên cách mệnh và người Việt Bắc được lột tả đậm nét ở hai câu thơ cuối:
“Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Nói tới “áo chàm” là người ta nghĩ ngay tới hình ảnh chiếc áo màu nâu, là màu áo của bà con nông dân lam lũ, cực khổ đã lao động cần mẫn phục vụ cho cách mệnh. thi sĩ sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là nói về người dân Việt Bắc. Áo chàm không dành cho riêng người nào, mà nói về tất cả những người dân chiến khu. Họ và những cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải họ không có gì để nói với nhau là trong lòng quá nhiều thứ để nói. Họ muốn nói với nhau nhiều lắm nhưng không khởi đầu từ đâu. Thế nên, chỉ cầm tay nhau để cảm nhận hết nỗi lòng. Bởi từ bàn tay, trái tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Khối óc con người sẽ dễ dàng nhận dạng được. Dù tình cảm vô cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy vẫn hợp lí trí. Họ hiểu rằng, không còn cách nào khác. Cuộc vui nào rồi cũng tới lúc chia li. Nhưng chia li trong nước mắt hạnh phúc vẫn hơn là trong khổ cực. Dù là phải xa nhau nhưng người dân Việt Bắc và những đội viên vẫn có niềm vui của thắng lợi.
8 câu đầu bài Việt Bắc không thể không nhắc tới những giải pháp nghệ thuật được thi sĩ Tố Hữu sử dụng. trước tiên là về thể thơ lục bát. Với thể loại này, khiến độc giả vô cùng dễ nhớ dễ thuộc, bởi đây là thể thơ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. không những thế, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca giúp bài thơ thêm phong phú về nhạc điệu. phối hợp với nhiều giải pháp tư như như hoán dụ, nghi vấn tu từ… giúp bức tranh buổi phân ly thêm rõ nét và nhiều xúc cảm.
Qua 8 câu thơ đầu độc giả vô cùng cảm động trước tình cảm tâm thành sâu sắc giữa bà con chiến khu Việt Bắc với những cán bộ, đội viên cách mệnh. nếu như như, 15 năm người ta sống trong sung sướng, sang giàu chưa chắc đã gắn bó, tình nghĩa như khi người ta sống trong gian khổ nghiêm trọng. bởi vậy, khi phải nói lời chia tay, mối thâm tình ấy của người đi và người ở càng thêm day dứt, luyến lưu.
Vì là người trong cuộc, lại là một hồn thơ yêu nước nên thi sĩ Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đượm tính nhân văn.
Viết bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài Việt Bắc
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 5
thi sĩ Tố Hữu được coi là “cánh chim đầu đàn” tiên phong trong nền thơ ca cách mệnh Việt Nam. Ngay từ tập thơ trước tiên, Tố Hữu đã cho thấy một trái tim hừng hực sức trẻ đang “bừng nắng hạ” vì được “mặt trời chân lý chói qua tim” . Và cho tới tác phẩm Việt Bắc, Tố Hữu đã hoàn toàn khẳng định được mình là một cây bút cách mệnh – trữ tình xuất sắc nhất trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XX.
8 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc thể hiện những xúc cảm lưu luyến, thương nhớ của mình khi rời Việt Bắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng lối xưng hô mình – ta hết sức thân tình và tình cảm. Đặc biệt đây là cách xưng hô thường thấy trong những câu ca dao – dân ca về giao duyên giữa lứa đôi với nhau.
Tố Hữu đã khéo léo mang sắc thái tình cảm lứa đôi vào tình nghĩa quân dân. Chính điều đó đã mang lại cho người đọc cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc một tâm trạng xúc động và quyến luyến như đang hòa nhập vào chính nhân vật “mình”
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
“Mười lăm năm ấy” tính từ năm 1941 cho tới hết năm 1954. 1941 là khi chưng Hồ về nước và lập căn cứ kháng chiến ở Pác Bó. Năm 1954 sau khi kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, chưng mới dời chiến khu về Hà Nội. Mười lăm năm ấy là mười lăm năm kháng chiến gian khổ. Nhưng trong chính những năm tháng vất vả trăm bề ấy, tình cảm quân – dân đã trở nên “thiết tha mặn nồng”.
Qua cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc ta có thể thấy được tình cảm giữa “mình” – những người đồng bào Việt Bắc dành cho “ta” – người cán bộ kháng chiến miền xuôi. Không còn chỉ là tình quân – dân mà nó trở thành thứ tình cảm giữa những người thân thiết trong gia đình.
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…
Những từ láy liên tục: tha thiết, bâng khuâng, thấp thỏm đã khắc họa rõ nét tâm trạng rối bời của nhân vật trữ tình trong phút chia ly. Trong đó, áo chàm là một hình ảnh ẩn dụ hết sức đặc sắc.
sử dụng áo chàm để chỉ những người đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã thực sự hòa nhập vào cuộc sống của những người dân ở đây. Không còn khoảng cách quân – dân, cán bộ – đồng bào. Trong giây phút chia ly chỉ còn “mình” với “ta” cùng nỗi xúc động “không biết nói gì ngày hôm nay”
Cảm nhận 8 câu đầu Việt Bắc để thấy được tính dân tộc của bài thơ, trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao duyên. Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên là một kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc bộc lộ xúc cảm, thể hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 6
Mỗi công dân đều có một dạng vân tayMỗi thi sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữKhông trộn lẫn…”
(Vân chữ – Cao Đạt)
Cái “vân chữ… không trộn lẫn” của thi sĩ hay của một nhà văn thứ thiệt mà Cao Đạt nhắc tới ở đây chính là phong cách tác giả, là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ qua tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn tư nhân của tác giả. Là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách thơ độc đáo, hấp dẫn, đó chính là tính trữ tình-chính trị sâu sắc, đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp độc đáo ấy của thơ Tố Hữu phải kể tới Việt Bắc- bản anh hùng ca, cũng là bản tình khúc về cách mệnh kháng chiến và con người kháng chiến. Làm nên Việt Bắc- một bản tình khúc thấm đẫm màu sắc dân tộc phải kể tới tám câu thơ đầu của tác phẩm:
“Mình đi mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Tố Hữu là thi sĩ của lý tưởng cộng sản. Ông tới với thơ ca và cách mệnh cùng một lúc. Vì vậy cho nên chặng đường thơ của ông luôn song hành với những chặng đường cách mệnh mà lộng gió thời đại với những tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn, Ta với ta… Trong đó có thể nói Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ Việt Bắc được trích từ tập thơ cùng tên và được sáng tác vào tháng 10/1945, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ đội viên rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm cảm hứng từ buổi chia tay ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Tính dân tộc của bài thơ thể hiện ở cả nghệ thuật lẫn nội dung và thể hiện sâu sắc nhất là ở tám câu thơ đầu.
Tính dân tộc dân tộc là một khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng- thẩm mĩ chỉ mối quan hệ văn học và dân tộc, thể hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối vững bền chung cho những sáng tác của một dân tộc được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử và phân biệt so với những dân tộc khác. Tính dân tộc được thể hiện xuyên suốt từ nội dung tới phương thức.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mệnh. Từ xưa tới nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. nếu như đừng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa thi sĩ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là phương thức diễn ý thân thuộc trong ca dao dân ca:
“Bây giờ mận mới hỏi đàoVườn hồng có lối người nào vào hay chưaMận hỏi thì đào xin thưaVườn hồng có lối nhưng chưa người nào vào”
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm ý thức dân tộc. không những thế tiếng nói là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là tiếng nói. tiếng nói thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu lứa đôi:
“Mình về ta chẳng cho vềTa nắm vạt áo ta đề câu thơ”
Chuyện ân tình cách mệnh đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tình yêu lứa đôi.
“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
“Mình” trên câu thơ trên chỉ người ra đi, còn “ta” là người ở lại. nhường như đây không còn là cuộc chia ly giữa đồng bào và cách mệnh mà nó đã trở thành buổi chia ly của lứa đôi yêu nhau mặn nồng da diết. từ đó ta mới mới phần nào thấm thía cái tình cảm mặn nồng, keo sơn của quân dân ta trong những buổi đầu đầu kháng chiến gian khổ, khó khăn. Dù bị cách trở bởi không gian và thời gian nhưng nhường như xúc cảm từ trái tim đã nâng đỡ họ vượt qua mọi rào cản để trong tâm hồn “như chưa hề có cuộc chia ly”. Tính dân tộc về mặt phương thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc tình nghĩa nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên phương diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mệnh; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mệnh hòa nhịp và tiếp nối truyền thống ý thức, tình cảm đạo lý dân tộc.
“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.”
Người ở lại đặt nghi vấn tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong người ra đi những kỷ niệm về ” mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho tới tháng 10.1954, là mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. có nhẽ vì vậy nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã nghĩ rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
“Mình về mình có nhớ không?Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Lại một nghi vấn tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy cây hãy nhớ tới núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ tới suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà tâm thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mệnh, “Quê hương cách mệnh dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của thi sĩ Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. từ đó thi sĩ cũng nhắc nhớ những thế hệ con cháu phải biết hướng về tông tích, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
“Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
nếu như như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ “người nào” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. người nào có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất sắp cách nói của ca dao: “Nhớ người nào bổi hổi bổi hổi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong trị giá biểu cảm của từ “người nào”. Một chữ “người nào” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc tới chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mệnh, đối với người miền xuôi. Một chữ “người nào” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” Hai từ láy “bâng khuâng” và “thấp thỏm” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại ngừng” để rồi “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”. Không biết nói gì phải chăng là vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ơn nghĩa, sắt son không thể nào sử dụng ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của yêu thương kết đoàn. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để tương đối ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, tình nghĩa sẽ ấm mãi như tương đối ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. từ đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ơn nghĩa, thủy chung, son sắt.
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mệnh, Tố Hữu đã viết nên một bản tình khúc, anh hùng ca mặn mòi bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 7
không phải tự nhiên mà thi sĩ Tố Hữu lại được coi là “cánh chim đầu đàn” tiên phong trong nền thơ ca cách mệnh Việt Nam. Ngay từ tập thơ trước tiên, Tố Hữu đã cho thấy một trái tim hừng hực sức trẻ đang “bừng nắng hạ” vì được “mặt trời chân lý chói qua tim” . Và cho tới tác phẩm Việt Bắc, Tố Hữu đã hoàn toàn khẳng định được mình là một cây bút cách mệnh – trữ tình xuất sắc nhất trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XX.
8 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc thể hiện những xúc cảm lưu luyến, thương nhớ của mình khi rời Việt Bắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng lối xưng hô mình – ta hết sức thân tình và tình cảm. Đặc biệt đây là cách xưng hô thường thấy trong những câu ca dao – dân ca về giao duyên giữa lứa đôi với nhau.
Tố Hữu đã khéo léo mang sắc thái tình cảm lứa đôi vào tình nghĩa quân dân. Chính điều đó đã mang lại cho người đọc cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc một tâm trạng xúc động và quyến luyến như đang hòa nhập vào chính nhân vật “mình”:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
“Mười lăm năm ấy” tính từ năm 1941 cho tới hết năm 1954. 1941 là khi chưng Hồ về nước và lập căn cứ kháng chiến ở Pác Bó. Năm 1954 sau khi kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, chưng mới dời chiến khu về Hà Nội. Mười lăm năm ấy là mười lăm năm kháng chiến gian khổ. Nhưng trong chính những năm tháng vất vả trăm bề ấy, tình cảm quân – dân đã trở nên “thiết tha mặn nồng”.
Qua cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc ta có thể thấy được tình cảm giữa “mình” – những người đồng bào Việt Bắc dành cho “ta” – người cán bộ kháng chiến miền xuôi. Không còn chỉ là tình quân – dân mà nó trở thành thứ tình cảm giữa những người thân thiết trong gia đình.
Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…
Những từ láy liên tục: tha thiết, bâng khuâng, thấp thỏm đã khắc họa rõ nét tâm trạng rối bời của nhân vật trữ tình trong phút chia ly. Trong đó, áo chàm là một hình ảnh ẩn dụ hết sức đặc sắc.
sử dụng áo chàm để chỉ những người đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã thực sự hòa nhập vào cuộc sống của những người dân ở đây. Không còn khoảng cách quân – dân, cán bộ – đồng bào. Trong giây phút chia ly chỉ còn “mình” với “ta” cùng nỗi xúc động “không biết nói gì ngày hôm nay”…Sự lưu luyến của “người đi” đối với cảnh và tình Việt Bắc đã được thể hiện qua những cử chỉ cụ thể, đặc biệt là hành động “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay” diễn tả sự nghẹn ngào trong xúc cảm và không thể diễn đạt thành lời.
Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại thấy được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, nhẹ nhõm, tha thiết được viết lên như một khúc tình khúc và trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên mình vì sự độc lập tự do của quốc gia. Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện tấm chân tình của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mệnh nhiệt tình vì sự nghiệp phóng thích dân tộc.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 8
Chiến tranh đã mang tới cho con người biết bao mất mát, hy sinh, niềm đau và nước mắt. Đó là điều mà người nào cũng có thể cảm nhận được. Thế nhưng, chính những gian truân ấy cũng là nền tảng và đòn bẩy để những tình cảm thiết tha, tâm thành có thời cơ được bộc lộ. Trong đó, tình quân nhân là một loại tình cảm cao đẹp và thiêng liêng được xuất phát từ chính tấm lòng của người lính và nhân dân nơi họ đặt chân tới. Bài thơ “Việt Bắc” là một khúc ca dạt dào tình cảm của kẻ ở, người đi trong một cuộc chia ly đầy nghẹn ngào và xúc động.
Năm 1947, chiến dịch Việt Bắc thu đông giành thắng lợi vẻ vang, toàn bộ cơ quan đầu não phải rời căn cứ để xuống xuôi tiếp tục sự nghiệp phóng thích dân tộc. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác để thanh minh nỗi niềm lưu luyến và thiết tha của những người lính cũng như nhân dân vùng núi rừng Việt Bắc. Tám câu thơ đầu của “Việt Bắc” là sự thanh minh rõ ràng và sâu sắc nhất xúc cảm của những người có mặt trong cuộc chia ly ấy.
Mở đầu bài thơ là một nghi vấn tu từ tâm thành, thấm đượm tình cảm.
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Chỉ tám câu thơ mà có tận bốn chữ nhớ cũng đủ để nói lên nỗi nhớ ấy da diết biết chừng nào. thi sĩ sử dụng “mình-ta” để xưng hô như cách mà những người vợ, người chồng hay những người thân thiết gọi nhau. Nhân dân và người lính Việt Bắc, qua những năm tháng gắn bó, đương đầu cùng nhau mà tình cảm của họ cũng mặn nồng, sâu sắc như người thân trong gia đình. thi sĩ sử dụng lối hát giao duyên như trong ca dao truyền thống để tạo nên một không khí sắp gũi, thân yêu và dễ đi vào lòng người. “Mình về mình có nhớ ta” là nghi vấn mà người ở lại dành cho kẻ ra đi. nghi vấn ấy thực ra cũng chẳng cần phải trả lời. Người ở lại như muốn hỏi chính mình, liệu rằng những người đội viên ấy khi về xuôi thì có còn nhớ về núi rừng, về cuộc sống nơi bản nhỏ. Mười lăm năm, một quãng thời gian dài đằng đẵng của những năm kháng chiến. Chính trong thời gian ấy, nhân dân và người lính đã cùng nhau đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau, chia sẻ và bảo vệ nhau trước những vấn đề, nguy hiểm của cuộc sống. Người lính về xuôi, liệu rằng khí nhìn cây, nhìn sông họ có nhớ tới rừng núi chập chùng, có nhớ tới nguồn nước từ trên cao đổ xuống. Những kỉ niệm của mười lăm năm gắn bó liệu có còn vương lại trong lòng họ hay không? Người dân Việt Bắc cứ tự đặt ra nghi vấn ấy, vừa để tỏa nỗi nhớ, vừa để thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn và lòng yêu thương, kết đoàn của dân tộc.
Sau nỗi nhớ là cảnh chia ly đầy nước mắt.
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi
Cả vùng Việt Bắc sát cánh cùng nhau bỗng nhiên ngày hôm nay lại phải chia lìa. người nào cũng hụt hẫng, người nào cũng mang trong mình nỗi buồn man mác. người nào cũng mong giành được thắng lợi, nhưng tới khi thắng lợi rồi thì họ lại phải xa nhau. “Tiếng người nào” là một loại âm thanh không rõ từ đâu tới, cũng chẳng rõ là của người nào, nhưng nó là tượng trưng cho tiếng nói của núi rừng và con người đang dạt dào sự nghẹn ngào, tiếc nuối. Giờ phút chia tay sao trôi nhanh quá. Người lính dẫu không muốn nhưng vẫn phải đựng bước ra đi. Những bước đi cũng họ nặng nề và nặng nhọc quá. Nó tiếng về phía trước nhưng lại không ngừng muốn quay trở lại, không phải xa lìa nơi mà họ đã gắn bó suốt tuổi xanh. Những bước chân ấy mang theo the cả nỗi niềm lưu luyến, “bâng khuâng” cho người ở lại. Trong lòng người đi và kẻ ở là những cảm giác không tên, nghẹn ngào rơi nước mắt.
Và cuộc chia li mỗi lúc lại càng thêm sầu thẳm, quyến luyến.
Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay
Ở hai câu cuối của đoạn một, hình ảnh “áo chàm” hiện lên với những ý nghĩa to lớn. Nó là đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Bắc đang ra tiễn những minh quân nhân lên đường về xuôi. Ta bắt gặp cảnh chia tay với những cái bắt tay đầy nghẹn ngào. Họ cầm tay nhau mà chẳng người nào có thể thốt lên một lời từ biệt. có nhẽ, họ muốn được nắm tay nhau mãi, ở cạnh nhau để cùng sẻ chia những đắng cay thế cục. Họ không biết nói gì không phải không có gì để nói mà vì có quá nhiều những lời sự mà họ không biết khởi đầu từ đâu, nói thế nào. có nhẽ, cái nắm tay tình cảm và ánh mắt họ nhìn nhau cũng đủ để cả hai bên thấu hiểu và thông cảm cho nhau. Họ không nói nhưng tình cảm lại lan tỏa và được giãi bày qua ánh mắt họ giành cho nhau. Họ không cần nói nhưng người nào cũng cảm nhận được nỗi niềm và sự thương nhớ bởi họ đã quá hiểu nhau suốt mười lăm năm gắn bó.
Bài thơ Việt Bắc và đặc biệt là tám câu đầu đã vẽ nên một cuộc chia ly đầy nước mắt và để từ đó, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm tâm thành và sâu sắc nhất giữa quân và dân trong những năm đương đầu gian khổ. Đó là thứ tình cảm cao cra, thiêng liêng đáng tự hòa và giữ gìn suốt thế cục.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 9
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh nước nhà . Thơ của ông luôn mang theo hướng sử thi và cảm hứng lãng mạng , đậm chất trữ tình. Trong sự nghiệp của mình Tố Hữu đã có rất nhiều tác phẩm có trị giá như tập thơ “Từ ấy”, “Máu và hoa”… một trong những số đó bài tiêu biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc” trích trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ tác giả đã thể hiện một cách thành công mô tả về nỗi nhớ nhung ra riết, tâm trạng bổi hổi lo lắng , lưu luyến trong buổi chia xa của người dân ở chiến khu Việt Bắc với đội viên và cán bộ cách mệnh. Điều đó ta có thể thấy rằng thi sĩ Tố Hữu thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…”
Chiến Khu Việt Bắc là một trong những căn cứ địa cách mệnh, là cái nôi đương đầu , kháng chiến chống giặc . Sau thắng lợi tưng bưng vẻ vang , thắng lợi Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, hiệp nghị Giơ ne vơ được kí kết. Tháng 10 năm 1954, Đảng và chính phủ nhà nước ta phải rời chiến khu Việt bắc trở về Thủ Đô Hà Nội. Cùng với sự kiện lịch sử vẻ vang ấy Tố Hữu đã viết nên bài thơ “Việt Bắc”.
Câu thơ mở đầu của bài thơ đó là một nghi vấn tu từ chứa đựng nhiều xúc cảm:
“Mình về mình có nhớ ta”
Từ “Mình” đó là để chỉ những người ra đi – người đội viên cách mệnh,từ “ta” chính là để chỉ người dân ở chiến khu Việt Bắc. nghi vấn đó chính là lời của người ở lại đặt nghi vấn cho người ra đi rằng khi người đội viên cách mệnh về dưới thủ đô Hà Nội rồi còn có nhớ tới những người nông dân Việt Bắc ở đây hay không? Với cách xưng hô “mình – ta” mà thi sĩ tố Hữu đã sử dụng , nó mang đậm chất ca dao cùng với điệp từ mình đã cho chúng ta thấy được tình cảm keo sơn gắn bó thân thiết đầy yêu thương của những người dân Việt Bắc dành cho những đội viên cán bộ cách mệnh , làm cho nỗi nhớ càng thêm day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc muốn hỏi người đội viên cách mệnh kháng chiến có nhớ:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Cụm từ Mười lăm năm đó chỉ là từ chỉ thời gian, là những khoảng thời gian chung sống với nhau, gắn bó keo sơn giữa người đội viên và người nông dân ở chiến khu Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian rất dài cùng nhau kháng chiến, đương đầu chống thực dân Pháp , cùng nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả đã không sử dụng từ “đó” như làm tăng thêm ý nghĩa của một khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời để thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với những tháng ngày gắn bó cùng người dân ở chiến khu Việt Bắc . Những từ như : “thiết tha”, “mặn nồng” là những từ tác giả sử dụng sử dụng để nhấn mạnh tình cảm yêu thương gắn bó keo sơn đùm bọc giữa người nông dân Việt Bắc và những người lính , cán bộ cách mệnh. Từ đó tác giả Tố Hữu muốn nhấn mạnh hơn để chúng ta thấy rõ hơn về tình nghĩa thủy chung son sắt luôn một lòng hướng tới cách mệnh, hướng tới những người đội viên , cán bộ của người dân chiến khu Việt Bắc.
Câu thơ tiếp tới thi sĩ Tố Hữu viết như một lời nhắc nhở đối với người đội viên và cán bộ cách mệnh rằng:
“Mình về mình có nhớ không”
Vẫn là câu những nghi vấn tu từ đó , vẫn là cùng một cách xưng hô “mình” nhưng đây là một nghi vấn vang lên như một lời nhắc nhở rằng “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở tới người đội viên và cán bộ cách mệnh là về thủ đô Hà Nội , về xuôi thì nhớ tới chiến khu Việt Bắc, hãy:
“Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Khi về tới thủ đô Hà Nội, những người lính và cán bộ cách mệnh khi nhìn thấy cây ở Hà Nội phồn hoa thì xin đừng quên mà hãy nhớ tới vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng nơi Việt Bắc. Hãy nhớ tới nơi mà đã gắn bó một thời gian dàu , thủy chung, son sắc, nơi những người lính, cán bộ cách mệnh và người Việt Bắc đã cùng nhau kháng chiến đương đầu chống thực dân Pháp , cùng nhau vượt qua biết bao là gian truân , khổ cực . Khi nhìn thấy sông thì hãy nhớ tới cội nguồn, hãy nhớ tới sông núi ở chiến khu Việt Bắc, nhớ tới những dòng sông đã đồng hành cùng những đội viên cách mệnh đương đầu. Hay đó cũng chính là lời nhắc nhở của người dân chiến khu Việt Bắc đối với người đội viên, cán bộ cách mệnh khi trở về thủ đô Hà Nội nhìn thấy cảnh vật nơi đô thị đẹp đẽ , tươi mới ấy thì hãy nhớ tới con người Việt Bắc nơi đây, nhớ tới những tháng ngày đồng hành cũng nhau đương đầu gian khổ nơi núi rừng đầy nguy hiểm , trắc trở, cheo leo. Ở đây Điệp từ “nhìn” và “nhớ” tác giả sử dụng nhường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người lính, cán bộ cách mệnh luôn luôn nhớ mãi về nơi chiến khu Việt Bắc. Nơi có những con người giản dị , chất phác , sắt son, thủy chung, mãi luôn một lòng mong nhớ về người lính cách mệnh.
Tiếp tới là Bốn câu thơ trước tiên là lời của những người nông dân nơi chiến khu Việt Bắc hỏi người lính ,cán bộ cách mệnh về xuôi.Ở đó thi sĩ Tố Hữu đã tính ý khi sử dụng lối đối đáp cách xưng hô “mình – ta”, điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là phối hợp cùng với nghi vấn tu từ đã làm cho người đọc thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung của người dân Việt Bắc đối với những người lính , những người cán bộ cách mệnh . từ đó ta có thể thấy được phẩm chất giản dị , chất phác tốt đẹp của con người chiến khu Việt Bắc nơi đây. Dù phải sống trong khó khăn, gian truân, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn mọi mặt về vật chất nhưng tình yêu của họ đối với người đội viên , cán bộ cách mệnh là không bao giờ thay đổi, luôn một nỗi nhớ nhung da diết và mãnh liệt.
Ở đây thi sĩ đã mô tả vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ là những lời của người nông dân ở chiến khu Việt Bắc mà còn là câu trả lời của người lính, cán bộ cách mệnh dành cho Việt Bắc:
“Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
thi sĩ Tố Hữu đã sử dụng với đại từ nhân xưng “người nào” đó chính là thể hiện ra tiếng lòng của người dân Việt Bắc vang vọng như là muốn gọi những người đội viên, cán bộ cách mệnh ở lại, không muốn họ phải chia li , hay đó cũng chính là tiếng lòng của người đội viên , cán bộ không muốn rời xa nơi chiến khu Việt Bắc . Từ “tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó càng thêm vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho người đọc cảm nhận được rõ hơn tình cảm giữa con người , rừng núi , cội nguồn Việt Bắc và người lính, cán bộ cách mệnh như vô cùng sâu nặng. Câu thơ tiếp theo sẽ càng làm rõ hơn điều đó:
“Bâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước đi”
Tác giả đã tinh tế khi sử dụng từ láy “bâng khuâng”, “thấp thỏm” chính là để làm rõ hơn tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” là một trạng thái khó tả biểu hiện cho sự lưu luyến day dứt, như còn băn khoăn lâng lâng một cái gì đó sâu sắc lắm trong tình cảm của mình. Nó làm cho tâm trạng của con người trở nên day dứt tới khó chịu ,”thấp thỏm” là chỉ sự ray rứt , khó chịu trong tâm trạng của con người như thấp thỏm lo lắng điều gì đó. Tất cả những điều đó đã tạo nên tâm trạng của những đội viên, cán bộ cách mệnh về thủ đô Hà Nội , khi trở về thủ đô Hà Nội vẫn còn mang trong mình một nỗi nhung nhớ , ra riết , ray rứt khôn nguôi, lẫn vào đó chút lo lắng trong tâm trạng của người lính, cán bộ cách mệnh. từ đó người đọc có thể cảm nhận được rằng tình cảm của những con người cách mệnh đối với nhân dân chiến khu Việt Bắc cũng tha thiết , sâu nặng không kém gì tình cảm mà người dân ở chiến khu Việt Bắc dành cho họ.
Hai câu thơ cuối cùng là hình ảnh xúc cảm nhất , hình ảnh trong khi người đi và người ở lại phải chia li , cuộc chia li chứa đầy nước mắt giữa người đội viên cách mệnh và người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
“Áo chàm” là một dạng áo màu áo nâu, là màu áo của người nông dân nghèo túng, gian truân , khổ cực , vất vả quanh năm tháng ngày lao động chuyên cần để phục vụ cho cách mệnh , phục vụ cho quốc gia . Tác giả đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” đó chính là để chỉ những người dân ở chiến khu Việt Bắc. những người Việt Bắc ra tiễn những người lính cách mệnh về xuôi trong một tâm trạng quyến luyến , day dứt, bâng khuâng. Từ “phân li” như thể hiện buổi chia tay ấy như là sự chia cắt sẽ không gặp lại nhau được nữa . nhường như họ không muốn phải rời xa nhau nhưng do hoàn cảnh lúc bấy giờ bắt buộc họ phải chia li, xa vắng nhau mỗi người một nơi. từ đó thể hiện nỗi nhung nhớ, khẳng định một tình cảm tha thiết gắn bó sâu đậm của nhân dân chiến khu Việt Bắc và những người đội viên , cán bộ cách mệnh. Tình cảm ấy càng được thi sĩ Tố Hữu khẳng định rõ nét hơn trong câu thơ cuối:
“Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Không phải giữa người đi và người ở lại không có gì để nói mà là có rất nhiều điều để nói mà không thể nói hết và không biết nói những điều gì trước tiên, bởi rằng mười năm năm chung sống có quá nhiều những kỉ niệm , từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm gắn bó keo sơn đùm bọc lẫn nhau , mười lăm năm cùng nhau quyết tâm vượt qua biết bao là gian truân trắc trở , khó khăn gian khổ tình cảm của họ quá sâu đậm, có quá nhiều điều để nói nhưng những lời nói ấy vì sao không thể nói nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà thứ duy nhất trào ra đó là chỉ có nước mắt của sự chia li trong một quang cảnh đầy xúc cảm , đầy những nối nhớ. Họ không nói ra được mà họ chỉ biết sử dụng hành động là cầm tay nhau, chỉ hành động rất nhỏ “cầm tay” thôi đã cho ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng và nỗi nhớ da diết giữa người đi và người ở lại . Hành động “cầm tay” tuy nó chỉ là một hành động nhỏ , một hành đông đơn thuần nhưng nó đã thay cho những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ nhường như được truyền hết qua hành động ấy. Đó còn là sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa vắng nhưng đã mang biết bao là nỗi nhớ của người đội viên cách mệnh và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.
Tám câu thơ tuy là ngắn gọn nhưng nó mang biết bao nhiêu là ý nghĩa , mang biết bao những xúc cảm khiến cho người đọc cũng có một cảm giác khó tả như hòa mình vào trong câu thơ . từ đó cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm son sắt, gắn bó sâu nặng giữa con người nơi chiến khu Việt Bắc và người đội viên ,cán bộ cách mệnh về xuôi. Ta thấy được tâm trạng bổi hổi lưu luyến của họ.
thi sĩ Tố Hữa đã vô cùng suất sắc , ông không những chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ mà còn thành công về nghệ thuật. Với những lối đối đáp, cách xưng hô mình – ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn từ giản dị, mặn mòi mang đậm tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Đoạn thơ giúp ta đã cảm nhận được rằng một cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, lòng tâm thành , tình yêu thương mà người dân Việt Bắc và người đội viên cán bộ cách mệnh dành cho nhau. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều xúc cảm và ấn tượng sâu sắc.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 10
Sau khi quân và dân ra dành thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy vẻ vang , trấn động toàn cầu, hiệp nghị Geneve được ký vào tháng 10 năm 1954, những đội viên , cán bộ cách mệnh , cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rời xa chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử lớn ấy, thi sĩ Tố Hữu đã sáng tác ra bài thơ Việt Bắc, bài thơ chủ yếu là khắc họa lại cuộc chia tay với những tình cảm thủy chung . Tình cảm ấy được thi sĩ Tố Hữu thể hiện rõ nhất qua tám câu thơ sau đây :
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng người nào tha thiếu bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Đoạn thơ thể hiện rõ một nỗi nhớ tưởng rằng không thể kìm nén được, cứ trào ra theo ngòi bút cảu tác giả và tuôn theo thành những dòng thơ. Ở đây thi sĩ Tố Hữu đã nhấn mạnh nỗi nhớ của người đi và người ở lại bằng những sử dụng có tới bốn chữ “nhớ” trong một đoạn thơ ngắn tám câu chắc hẳn là nỗi nhớ ấy phải chứa đựng một cái gì đó thật da diết và sâu nặng. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mệnh, nhớ nơi mà mình đã từng gắn bó biết bao là những gian truân khổ cực của người đã từng gắn bó sâu sắc với vùng đất thiêng đầy kỷ niệm ấy, là nỗi nhớ của tình nghĩa của sự ân tình thủy chung.
tìm hiểu 8 câu đầu của bài thơ Việt Bắc để ta có thể thấy được tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ da diết , sự thủy chung của người đội viên , cán bộ cách mệnh với những người dân ở chiến khu Việt Bắc.
Ngay từ khi khởi đầu bài thơ ta có thể thấy rằng thi sĩ đã nhắc tới một nỗi nhớ của đạo lí Việt Nam, cảnh tiễn đưa những người lính , những người cán bộ trở về xuôi mang một tâm trạng bâng khuâng trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ da diết , không muốn rời xa và người ra đi trả lời bằng chính nỗi nhớ ấy của mình. Tố Hữu đã suất sắc khi diễn tả nỗi nhớ quê hương cách mệnh bằng những tiếng lời nói ngọt ngào, thiết tha của khúc hát đối giao duyên nam nữ . Khúc hát ấy đã thấm nhuần vào tư tưởng đạo lí ân tình thủy chung , nó được thể hiện rõ trong bốn câu thơ sau :
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.
Nghe như là ca dao, nhưng đâu đó lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu tạo điều kiện cho ta gợi nhớ tới một câu thơ trong Truyện Kiều:
“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Người dân ở chiến khu Việt Bắc đã hỏi những người đội viên, cán bộ cách mệnh khi về tới thủ đô Hà Nội có còn nhớ tới mình không? Có còn nhớ những kĩ niệm, tình cảm thiết tha, mặn nồng gắn bó trong suốt qoãng thời gian mười lăm năm đó không . Nhìn cây còn có nhớ núi rừng VIệt Bắc , nhìn sông còn có nhớ tới cội nguồn? Tuy là bốn câu thơ nhưng thực chất nó lại là hai nghi vấn tu từ. Lời nói của người ở nhưng thực ra là lời nói của người đi để nói lên đạo lí Việt Nam truyền thống dân tộc vốn là bản tính tốt đẹp . Bốn câu thơ ấy không chỉ nói lên mà chính là để nhắc nhở mọi người, để nhắc nhở chính bản thân mình bởi vì cái đạo lí ấy thiêng liêng lắm , chúng ta phải luôn biết phải giữ gìn và phát huy.
Khoảng thời gian sâu nặng ấy biết bao trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, thể hiện nỗi nhớ , ân tình biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. thi sĩ Tố Hữu đã sử dụng bốn chữ ” mình ” , có tới bốn chữ ” nhớ” trong bốn câu thơ nó hòa quyện lại cùng chữ “ta” ,làm cho cái đạo lí ân tình Việt Nam trở thành một sợi chỉ đỏ nó xuyên suốt trong bài thơ Việt Bắc và nó cũng chủ thành một chủ đề lớn , chủ đề chính của tác phẩm .
Sau bốn câu thơ mở đầu là cảnh người đi và người ở lãi tiễn đưa nhau nó mang một cảm giác bâng khuâng trong nỗi nhớ của người dân chiến khu Việt Bắc với những người linh , những người cán bộ cách mệnh :
“Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Ở đây ta có thấy rằng có âm thanh của sự da diết và thể hiện càng rõ nét màu sắc mặn mòi thủy chung. Giữa người đi và người ở lại không phải là họ không có gì để nói cho nhau , mà nó có quá nhiều nhưng điều để nói , mà không biết khởi đầu từ đầu , vì đó họ đã thể hiện với nhau bằng những hành động , tuy những hành động nhỏ nhưng nó lại chứa đựng biết bao là những xúc cảm , được thể hiện bằng những hành động có bước chân thấp thỏm và những cái nắm tay đầy lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi nó lại mang theo biết bao là nỗi niềm luyến lưu cho người ở lại. “Tiếng người nào” đây không phải là một nghi vấn, cũng không phải là đại từ phiếm chỉ mà đó chính là cách để nói, để thể hiện nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi”. “Bâng khuâng” là vì “đi không nỡ”, nhưng “thấp thỏm” vì ở cũng chẳng đành bởi vì họ biết rằng chiến khu Việt Bắc nơi đây nó đã trở thành những ký ức, trở thành thành tình yêu, thành tâm hồn:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Những từ láy như là bâng khuâng, như thấp thỏm đều được thi sĩ Tố Hữu sử dụng rất tinh tế trong câu thơ này. Nó đã thể hiện được rõ nhất nỗi niềm, được tâm trạng và cả những đi lại trong xúc cảm của cuộc chia li này , để rồi hình ảnh tiếp theo xuất hiện là hình ảnh chiếc áo chàm gợi tả con người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Màu áo chàm ở đây là một hình ảnh vô cùng ý nghĩa, đó là màu áo của người nông dân Việt Bắc giản nhỉ , mộc mạc , gian truân khổ cực , nhưng lại mang đậm tính son sắt như chính lòng thủy chung của con người nơi đây. Màu áo chàm ấy nhắc nhở những người lính , người cán độ nhiều những ký ức khó phai nhòa.
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay” nó mang một hành động, một trị giá biểu cảm vô cùng lớn. “Cầm tay nhau” nhưng chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm cần nói ra , vì trong lòng họ đang tràn ngập nỗi nhớ nhung da diết nên họ không biết nói điều gì trước, điều gì nên giãi bày, điều gì nên giấu kín trong mình . Vậy nên chẳng “biết nói gì” chính là nói lên nhiều tấm lòng yêu thương .thi sĩ Tố Hữu đã vô cùng xuất sắc khi sử dụng trong câu thơ ngắt nhịp 3/3/2 như sự ngập ngừng lưu luyến, nhớ nhung , cũng vào hoàn cảnh đó , xúc cảm đó làm ta liên tưởng tới buổi tiễn đưa của người chinh phu và chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:
“Bước đi một bước, giây giây lại ngừng”.
Ta có thể thấy trong màn đối đáp của cuộc chia tay lịch sử ấy, tác giả Tổ Hữu đã để cho người ở lại , người dân ở chiến khu Việt Bắc lên tiếng trước. Điều đó không những hợp lý, mà còn cần thiết cho sự phát triển trong cả bài thơ.
Bằng việc sử dụng đại từ “mình – ta” cùng thể thơ lục bát của Tác giả Tố Hữu, ông đã tái tạo lại một cuộc chia tay lịch sử của người dân chiến khu Việt Bắc và người đội viên, cán bộ cách mệnh với biết bao kỉ niệm ân tình, chung thủy. Bài thơ Việt Bắc ra đời cũng chính là lời nhắc nhở tình nghĩa gắn bó , đùm bọc lẫn nhau cùng đạo lý tri ân muôn thuở của dân tộc Việt Nam ta.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 11
Bạch Cư Dị khi nói về nói thơ, nghĩ rằng: ” Thơ, tình là gốc, lời là ngọn, âm thanh là hoa, tức là quả”, đó là một sự toàn diện tạo nên sức sống của thơ giữa dòng thời gian. Tiếng thơ Tố Hữu cũng vậy. thi sĩ dụng công hiến dâng áng thơ ” Việt Bắc” để gửi gắm tư tưởng tình cảm sâu sắc về tình nghĩa trong thời chiến còn làm rung động lòng người. Tám câu thơ đầu: ” Ta về mình có nhớ ta…Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…” là kết tinh tư tưởng chủ đề đó.
Tám câu thơ đầu hay dòng tâm trạng bâng khuâng, quyến luyến khi giờ chia ly đã điểm, đậm tô ân tình cách mệnh của người đồng bào miền núi với cán bộ, đội viên.
Thể thơ lục bát khiến câu thơ mềm mại, điệu thơ trầm bổng, phối hợp với vần phong phú, nhịp đều đặn gợi trạng thái muôn vàn trong tâm hồn người ở, kẻ đi. Kết cấu đối đáp, cách xưng hô ” mình, ta” thân thuộc xuất hiện trong ca dao giao duyên buổi tự tình, hò hứa hẹn của chàng- nàng, mận- đào, mở ra bầu không khí tâm tình, giọng tình thương mến, ngọt ngào. Đoạn thơ nói tình cảm chính trị mà không khô khan.
Với người ở lại, nhạy cảm với sự thay đổi nên lên tiếng trước:
“- Mình về mình có nhớ ta?Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ không?Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
nghi vấn tu từ láy đi, láy lại theo phương thức tăng tiến ” có nhớ ta, có nhớ không” gợi những cung bậc xúc cảm từ ướm hỏi xa xôi tới nỗi khắc khoải lắng tai lời đồng vọng. từ đó giúp ta cảm tấm chân tình của người ở lại, tình đồng bào với người đựng bước. Thời gian lịch sử ” mười lăm năm”, cũng là thời gian tình cảm mặn nồng ơn nghĩa. Không gian ” cây, núi, sông, nguồn” gợi Việt Bắc đại nghìn, núi thăm thẳm. Điệp từ ” nhớ”diễn tả nỗi lòng lớp lớp, khôn nguôi. Cách diễn đạt mang lỗi nghĩ dân gian như lời nhắn nhủ của ông cha về lối sống ẩm hà tư nguyên, nhắc nhớ sự thủy chung.
Lời người đi xuôi đáp lại tiếng lòng kẻ ở lại:
“- Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…”
Cặp câu lục bát sử dụng những láy từ ” thấp thỏm, bâng khuâng” biểu hiện mọi nỗi niềm trong lòng người ly biệt. Tâm trạng được hữu hình hóa, vô hình thành hữu hình ” thấp thỏm bước đi” gợi bước đi chầm chậm chẳng nỡ rời buông như bước chân kẻ chinh phu, tráng sĩ ngày nào trong ” Chinh phụ ngâm”:
“Bước đi một bước, giây giây lại ngừng”
Nhưng đó là tình phu- phụ, còn ” Việt Bắc” nói tới tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Hình ảnh áo chàm trong buổi phân ly đã từng đi về từng đi về trong ca dao xưa, chiếc áo để người đắp cho bớt hiu quạnh, áo bào của nàng Kiều trong buổi chia ly Thúc sinh. Nhưng Tố Hữu mượn sắc áo chàm bình dị, bền, khó phai, khó nhạt của đồng bào miền ngược nói sắc lòng người ở lại mãi vẹn nguyên. Tâm tư tình cảm người ở được cảm bởi người đi, nhường như ” ta, mình” hiểu nhau cả những điều không nói ra. Bởi vậy, hành động ” Cầm tay nhau biết nói gì” như khoảng lặng của âm nhạc, khoảng trống của nhiếp ảnh, khoảng vô ngôn dư tình trong văn học. Thời gian như ngừng lại để kẻ ở và người đi hội thoại đàm tâm, sự thấu hiểu của tình tri kỉ, tri kỷ giữa người đồng bào và cán bộ cách mệnh mang ân tình cách mệnh sâu đậm.
Tám câu thơ đầu trong ” Việt Bắc” vừa tiếp thu trị giá dân gian phong phú vừa được thi sĩ Tố Hữu sáng tạo ý mới, hình ảnh mới, diễn đạt tình cảm, sự kiện thời đại phản ánh quy luật kế thừa, cải cách nghệ thuật.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 12
Vào những năm 1932 – 1945 trước cách mệnh tháng Tám, trên cánh đồng thơ ca Việt Nam liên tục nhận những làn gió của thơ mới thổi qua với những tên tuổi nổi tiếng như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, họ loay hoay thể hiện cái tôi trong thơ lãng mạn của mình, họ đi tìm cấu tứ mới, chất liệu mới, thi liệu mới và ta gọi họ là “những thi sĩ mới”. Mặc dù trưởng thành ở giai đoạn này nhưng thi sĩ Tố Hữu ông lại không viết thơ mới, mà trái lại lại hướng tới vẻ đẹp của thơ ca truyền thống. Người thì gọi ông là thi sĩ mang hồn thơ của dân tộc, người thì gọi ông là thi sĩ mang lẽ sống lớn, tư tưởng lớn, còn có những người lại gọi ông là cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Ông đem văn học như một thứ vũ khí trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Trong đó “Việt Bắc” được coi là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ Tố Hữu. Là tác phẩm vượt trội cho văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đoạn trích trên nằm ở tám câu đầu của văn bản, đã khắc họa rõ nét khunng cảnh chia tay thân tình, đầy nuối tiếc của người cán bộ kháng chiến với những người dân Việt Bắc. Có thể nói rằng, đoạn thơ mang tiêu biểu cho tính chất thơ trữ tình, chính trị của Tố Hữu.
“Mình về mình có nhớ ta
……….
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay..”
Ông khẳng định tài năng của mình ở phong cách sáng tác trữ tình, chính trị sâu sắc. Ông thanh minh xúc cảm, lưu giữ những tình cảm của mình qua những sự kiện lớn lao, trọng đại của dân tộc. Đồng thời lồng ghép trong những tác phẩm thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhưng lại không hề khô khan, mà lại mang giọng điệu tâm tình, ngột ngào và mang tính dân tộc mặn mòi. Vào tháng 7 năm 1954 khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc. hiệp nghị Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn được phóng thích. Tháng 10 năm 1954, người cán bộ từ “thủ đô gió nghìn” Việt Bắc trở về tiếp quản “thủ đô ánh sáng” Hà Nội, chia tay nhân dân Việt Bằc. Nhân sự kiện lịch sử có tính thời sự này, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc trong tập thơ cùng tên được nhớ tới như một bản tổng kết kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ. Nhưng lại vừa là lời gợi nhắc về những kỉ niệm, ân tình cách mệnh cùng với sự chia tay đầy nuối tiếc của những người cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc.
Tám câu thơ đầu hay dòng tâm trạng bâng khuâng, quyến luyến khi giờ chia ly đã điểm, đậm tô ân tình cách mệnh của người đồng bào miền núi với cán bộ, đội viên. Thể thơ lục bát khiến câu thơ mềm mại, điệu thơ trầm bổng, phối hợp với vần phong phú, nhịp đều đặn gợi trạng thái muôn vàn trong tâm hồn người ở, kẻ đi. Kết cấu đối đáp, cách xưng hô “mình, ta” thân thuộc xuất hiện trong ca dao giao duyên buổi tự tình, hò hứa hẹn của chàng- nàng, mận- đào, mở ra bầu không khí tâm tình, giọng tình thương mến, ngọt ngào. Đoạn thơ nói tình cảm chính trị mà không hề khô khan, thể hiện một mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa người cán bộ cách mệnh và người dân Việt Bắc.
Tố Hữu đã khéo léo mang sắc thái tình cảm lứa đôi vào tình nghĩa quân dân. Chính điều đó đã mang lại cho người đọc cảm nhận bốn câu đầu bài thơ Việt Bắc với một tâm trạng xúc động và quyến luyến như đang hòa nhập vào chính nhân vật “mình”, là lời của người ở lại hay nhân dân Việt Bắc nói với người ra đi hay người cán bộ kháng chiến.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Tác giả mở đầu bằng một nghi vấn mang âm hưởng ca dao, tình yêu: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” là hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. “Về” gợi tới sự chia li, đó là sự chia li của người ra đi và người ở lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì “mình” đứng ở đầu câu, còn “ta” đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa “ta” và “mình”. Nỗi niềm gợi lên qua nghi vấn ấy của người ở lại là nỗi nhớ, tình cảm của người ở lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ là một từ “nhớ”, nó làm cho “mình” và “ta” nhường như được xích lại sắp nhau hơn. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều, nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một thời kháng chiến. “Mười lăm năm ấy” gợi tới một quãng thời gian lao khăn, một thời đau thương, mất mát. Tuy vậy, nhường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng lại trong câu thơ chỉ còn là tình cảm “thiết tha mặn nồng”. Đó chính là sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong “mười lăm năm ấy” giữa “ta” và “mình”. Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình. Nỗi nhớ, niềm thương da diết trong lòng người ở lại không chỉ ở bên trong những câu hỏi mà còn kín đáo thể hiện nghệ thuật điệp. Hàng loạt điệp từ, điệp cấu trúc đan kết vào nhau khiến điệu thơ da diết, quyến luyến, hằn sâu một nỗi nhớ thương. Đặc biệt là từ nhớ điệp lại bốn lần. Có phải chăng nhớ thương như lớp sóng biển dào dạt, vô hồi, vô hạn?
tới câu thơ thứ ba cũng là một nghi vấn. nghi vấn: “Mình về mình có nhớ không” cũng có sự lặp lại sắp giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa “ta – mình” và nỗi nhớ nhường như không còn chỉ hướng tới “ta”, mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian “núi rừng” và “sông nguồn”. nghi vấn gợi về không gian có “núi”, có “nguồn” ở núi rừng Việt Bắc. Đây chính là không gian thân thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại không còn là không gian vô hồn, vô cảm mà là không gian chứa đầy kỉ niệm, nó góp phần tạo nên tình cảm cho người ra đi. Ở trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Sự đan xen giữa những hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính là mong muốn của người ở lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người ở lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu thị trực tiếp qua động từ “nhớ” xuất hiện nhiều lần ở khổ thơ, càng về cuối thì từ “nhớ” xuất hiện càng nhiều đã thể hiện cường độ nhớ ngày một tăng và nó đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó là âm hưởng thương nhớ, ân tình tha thiết.
Bốn câu thơ đầu chỉ với hai nghi vấn, nhưng chủ yếu là để giãi bày tình cảm và để mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó có sự gắn bó khăng khít trong một thời kháng chiến và một vùng kháng chiến. Để rồi từ đó, người ra đi đáp lại sức ở lại bằng bốn câu thơ:
“- Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Buâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay..”
Người ở lại đặt ra nghi vấn nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời nghi vấn đó mà thay vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, quyến luyến trong buổi chia tay. Ấn tượng ban đầu đã tác động tới người ra đi: “Tiếng người nào tha thiết bên cồn”. “người nào” là đại từ không xác định. “người nào” có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, thân thuộc với người ra đi – một con người cụ thể xuất hiện “bên cồn” trong buổi chia li. “người nào” có thể là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra đi. Dù hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động tới người ra đi là âm thanh tiếng nói tha thiết – đó chính là âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. Và âm thanh đó nhường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình và âm thanh đó gọi về mối tình keo sơn gắn bó thân thiết giữa người ở lại với người ra đi. Chính âm thanh đó đã khiến cho người ra đi “Bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi”. Từ láy “bâng khuâng” diễn tả tâm trạng lưu luyến, có chút buồn, hụt hẫng, trống vắng của người cách mệnh. Từ láy “thấp thỏm” vừa diễn tả được những cung bậc tình xúc cảm động quyến luyến, vừa diễn tả được hành động thấp thỏm, đứng ngồi không yên của người cán bộ cách mệnh. nhường như người cán bộ cách mệnh chân bước ra đi mà lòng thì vẫn muốn còn ở lại. Phải những người nào đã từng sống trong cuộc chia tay mới có thể thấu hiểu, cảm nhận được hết những cung bậc tình cảm của người cán bộ cách mệnh khi phải rời xa Việt Bắc. Câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài. “Trong dạ” thì “bâng khuâng” còn hành động bên ngoài biểu hiện sự “thấp thỏm” thấp thỏm của người ra đi, nhưng lại có sự tương đồng trong xúc cảm và hành động. Chính vì xúc cảm “bâng khuâng” thì mới có hành động “thấp thỏm” đó được. Câu thơ mang ý nghĩa rất tiêu biểu cho tình cảm của con người lúc chia tay
Cặp thơ lục bát được tác giả góp thêm một tí nhịp độ, như một đảo phách trong âm nhạc. Trong cảm nhận của người ra đi, một hình ảnh bình dị, thân thuộc thường xuất hiện trong cuộc sống đời thường đó là hình ảnh “áo chàm”. Hơn thế nữa chiếc “áo chàm” gợi tới sắc màu dai sức khó phai. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” để chỉ người dân Việt Bắc và bởi vậy nói “áo chàm đưa buổi phân li” là nói về cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mệnh. Mượn hình ảnh “áo chàm” nhường như tác giả muốn nói tới tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người dân Việt Bắc với người đội viên cách mệnh. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi chính là hành động “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay..”. Trước tiên là hành động “cầm tay nhau” là hành động thân thuộc và rất đẹp của những người nào khi chia li, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Đôi bàn tay của những con người cầm súng ấm ấp, nâng niu đôi tay của những người lao động. Những đôi tay vất vả, sờn lên vì những vấn đề khác nhau, nhưng giờ phút ấy, đôi ta đều chung một nỗi tâm tình. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì vậy không nói lên lời. Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường nhật bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, quyến luyến. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Hình ảnh giàu tính gợi hình, gợi xúc cảm, chẳng cần phải giãi bày nhiều vì có quá nhiều điều muốn nói, nhưng lại chẳng biết khởi đầu từ đâu. Nỗi lòng ấy, xin người để “ta” chôn chặt trong tim nhưng tình cảm sẽ sống mãi trong khoảnh khắc “cầm tay” ấy.
Đoạn thơ trên tiêu biểu cho tính chất thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Không chỉ vẽ nên những cung bậc xúc cảm hết sức đa dạng, sâu lắng của người đi kẻ ở. Mà phối hợp với nhịp thơ nhẹ nhõm, du dương lại vừa sáng tạo ý mới, hình ảnh mới, diễn đạt tình cảm, sự kiện thời đại phản ánh quy luật kế thừa, cải cách nghệ thuật để diễn tả một cách trọn vẹn, khéo léo những tình cảm tâm thành ấy đã cho thấy tài năng vượt trội của Tố Hữu trong số những thi sỹ tài hoa của Việt Nam.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 13
Tố Hữu là thi sĩ của lý tưởng cộng sản, là cờ đầu của nền thơ ca cách mệnh Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp núi chung. Bài thơ là khúc tình khúc và cũng là khúc hùng ca về cách mệnh về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương quốc gia, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ơn nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua phương thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại :
Và đoạn thơ:
“Mình về mình có nhớ ta…tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Là một trong những đoạn tiêu biểu cho tình cảm ơn nghĩa thủy chung đó. Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ cùng cán bộ đội viên rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đó xúc động viết nên bài thơ này. Bài thơ được cấu tạo theo lối đối đáp giao duyên của ca dao dân ca: Đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng nay phải chia tay nhau kẻ đi người ở. Cả bài thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong kẻ ở và người đi trong nghi vấn và trong cả lời đáp. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại cồn cào da diết.
Ở bốn câu thơ đầu nhường như nhạy cảm với hoàn cảnh thay đổi, người ở lại lên tiếng trước, vặn người ra đi về tấm lòng chung thuỷ:
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Giọng thơ như tuôn chảy từ trong nguồn mạch của ca dao dân ca. Lối xưng hô “Mình _ ta” ngọt ngào tha thiết như tình yêu lứa đôi. Nhưng mình ở đây không người nào khác chính là người ra đi, là cán bộ kháng chiến chuẩn bị về xuôi. Còn ta là người ở lại, là những người dân Việt Bắc ân tình chung thủy. “Mình về mình có nhớ ta”. Liệu mình – những người cán bộ đội viên sau khi thắng lợi về chốn phồn hoa đô hội có còn nhớ tới đồng bào và mảnh đất Việt Bắc với những tháng năm gian khổ đã từng đùm bọc và chở che cho họ trước đây không. Cách xưng hô “mình- ta” cứ như lời thanh minh tình yêu lứa đôi trong dân gian Và Tố Hữu đã mượn cách nói thân tình ấy để lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân. vì vậy lời thơ không bị khô cứng mà ngọt ngào êm ái.
“Mười lăm năm ấy”, Con số vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm những mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc . Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều :
Những là rày ước mai aoMười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
Cách sử dụng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ càng thêm da diết : Không biết mình còn nhớ hay đã quên, chứ ta thì ta không thể quên được những tháng năm ấy. Và cũng để rõ thêm tấm lòng của người ra đi, kẻ ở đã khéo gợi ra cảnh
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
tình nghĩa giữa ta và mình bắt nguồn từ những lý lẽ hiển nhiên giống như đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc vậy. Liệu mình có giữ được tấm lòng chung thuỷ trước những cám dỗ mới của thế cục không? Đó cũng chính là tâm trạng, là nỗi lòng băn khoăn của “người ở lại”, của “ta”. → Cách liên tưởng so sánh trên không chỉ mở rộng không gian của nỗi nhớ, mà còn làm cho kỷ niệm cứ như tuôn trào tầng tầng lớp lớp.
những cặp hình ảnh ” cây-núi”; “sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo.Nó không chỉ gợi ra không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Mà nó còn nói lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra. Nhớ về nhân dân, như nhớ về cội nguồn
những từ “mình” “ta”, nghi vấn tu từ “Mình về mình có nhớ …” được láy lại 2 lần làm cho nỗi nhớ niềm thương cứ dâng lên mãi trong lòng của người đi và kẻ ở.
Và để đáp lại sự băn khoăn của người ở lại là tiếng lòng của người ra đi.
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi.Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay
Đại từ “người nào” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mung lung trong nỗi nhớ ( như cách thanh minh trong ca dao : người nào về người nào có nhớ người nào…) thì ra người đi cũng cùng một tâm trạng, cùng một tình nghĩa chung thuỷ như bạn mình : Bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi.
“Bâng khuâng, thấp thỏm” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, thương nhớ, đợi mong… lộn lạo cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ đội viên, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm đương đầu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào ? Tác giả đã sử dụng một loạt những từ láy, những từ chỉ trạng thái tình cảm của người đang yêu để giãi bày tình cảm không nói lên lời của người ra đi cũng thuỷ chung tình nghĩa như tấm lòng người ở lại vậy.
Một thời gắn bó, một thời thủy chung, nay ta và mình chia xa :”Áo chàm đưa buổi phân li”.Áo chàm” không đơn thuần là chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi mà nó đã được hoán dụ trở thành biểu tượng cho nhân dân Việt Bắc thuỷ chung sâu nặng tình nghĩa, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Nay kẻ đi người ở, hỏi sao không bổi hổi xúc động : “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”.
Câu thơ …”đầy tính chất biểu cảm . Nó gợi ra cảnh quyến luyến luyến lưu tay trong tay mà không nói lên lời của đôi trai gái yêu nhau để từ đó tác giả tỉ khắc sâu thêm tình cảm gắn bó thắm thiết, thuỷ chung của người miền xuôi đối với người miền ngược.”Biết nói gì” không phải không có điều để giãi bày mà chính là vì có quá nhiều điều muốn nói mà không biết phải khởi đầu từ đâu, nên nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuông nhạc để tình cảm ngắn dài, sâu lắng…Trong buổi chia ly, mặc dù chưa biết nói gì với kẻ ở lại nhưng thực ra người ra đi đã nói được rất nhiều điều. Bởi lặng im cũng là một thứ tiếng nói của tình cảm
Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả một cách thân tình cái ngập ngừng , quyến luyến trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở. Kỷ vật trao rồi mà mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.
Qua bài văn cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc, chúng ta thấy được nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ là biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập tới con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả truyền tụng phẩm chất cách mệnh cao đẹp của quân dân ta, khẳng khái niệm tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, đội viên đối với “Việt Bắc”
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 14
Nhắc tới Tố Hữu, người ta sẽ nhớ ngay tới hình ảnh của một thi sĩ luôn tiên phong trong phong trào nghệ thuật vì nền cách mệnh nước nhà. tuyến đường thơ ca của Tố Hữu luôn gắn liền với những hình ảnh, sự kiện vượt trội của dân tộc.
Bằng giọng thơ giàu tình cảm, văn pháp tài tình phối hợp giữa chính trị và nghệ thuật biểu hiện, ông đã sáng tác bài thơ Việt Bắc được xem là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt, chỉ qua khổ thơ thứ nhất, ông đã mang tới cho người đọc tới với vùng đất Việt Bắc đầy nắng gió, khó khăn những thấm đẫm tình nghĩa.
Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10/1954, đây là giai đoạn chuyển giao khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, những cán bộ chiến sỹ rời chiến khu Việt Bắc quay trở lại thủ đô Hà Nội. Cuộc chiến tranh kết thúc với bao niềm vui hoan hỉ vì nền độc lập hòa bình, thế nhưng đồng nghĩa với việc chia ly giữa cán bộ và đồng bào Việt Bắc. Nơi ấy, nhân dân cán bộ đã trải qua cùng nhau bao khó khăn, kỉ niệm, chia sẻ ngọt bùi cùng nhau. Bài thơ Việt Bắc ra đời để thể hiện biết bao tâm tình của người đi kẻ ở.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã thay lời muốn nói của những người ở lại để thể hiện cho hết cung bậc thương nhớ, tình cảm:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Mình – ta thường được sử dụng để thể hiện mối quan hệ sắp gũi như vợ chồng, lứa đôi. Thế nhưng tác giả đã sử dụng cặp từ ấy cho đồng bài Việt Bắc với những người lính cán bộ. không phải vợ chồng nhưng tình nghĩa đôi bên cũng keo sơn, bền chặt tựa tương tự. Những nghi vấn dồn dập, nào là có nhớ ta, nhớ cây nhớ núi nhớ sông nhớ nguồn không. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại nhiều lần trong nghi vấn tu từ càng xoáy sâu vào trong trong lòng người đọc.
“Mười lăm năm” là chi tiết thực chỉ độ dài từ những năm 1940 cho tới thời gian ấy, hơn một thập kỷ chúng ta đã cùng nhau ăn, cùng nhau cười, cùng nhau đương đầu. So với những cuộc kháng chiến khác, mười lăm năm ấy không phải là dài. Thế nhưng cái quan trọng ở đây, khoảng thời gian ấy đã tích tụ, bồi đắp biết bao tình cảm, có thể đong đầy bằng cả đời người. nghi vấn chất chứa tình cảm lưu luyến, bao lời dặn dò của người ở lại cho người ra đi.
Trở về với phố hội phồn hoa, mong người đừng quên “cây núi sông nguồn chốn đây”. Những cảnh vật tuy vô tri vô giác, thế nhưng đã cùng “mình” với “ta” trong suốt bao năm qua lúc vui kể cả lúc buồn. Cây và sông là biểu tượng của không gian miền xuôi, với vùng cao đầy núi và nguồn. Sự chia ly có thể bị ngăn trở bởi khoảng cách thế nhưng “ta” vẫn luôn hy vọng “mình” sẽ chẳng bao giờ quên những chốn kỉ niệm ấy.
Tố Hữu đặc biệt sử dụng những từ “thiết tha”, “mặn nồng” càng làm tăng trị giá của những thứ tình cảm ấy. Phải thật trân trọng, đáng quý xiết bao mới khiến con người ta không khỏi nuối tiếc nếu như phải đánh rơi đi.
nếu như như đối với người ở lại, những tình cảm ấy chất chứa trong hàng nghìn lời nói thì người ra đi chỉ biết sử dụng hành động để thể hiện nỗi lòng. Tình cảm ấy, họ đã quá hiểu nhân dân Việt Bắc. Vì sự nghiệp quốc gia vẫn đang đợi chờ những anh nên buộc lòng những anh phải ra đi, tuy chẳng nỡ nhưng cũng đành xa vắng:
“Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước đi”
Những cặp từ láy “bâng khuâng”, “thấp thỏm” diễn tả trạng thái tâm lý thương nhớ, luyến tiếc khiến lòng không thể yên. Như Tú Xương đã viết:
“Nhớ người nào người nào nhớ bây giờ nhớ người nào”…
Tiếng “người nào” ấy lại chất chứa biết bao yêu thương, không thể chỉ cụ thể một người, bởi tình cảm ấy là dành cho cả một đồng bào Việt Bắc. Tố Hữu đã khai thác tiếng “người nào” ấy một cách xuất sắc, khi để lại âm vang trong lòng người về. Nó khiến cho tâm trạng con người càng trở nên nôn nao, những dòng xúc cảm cứ ào về không thôi. Nhưng những tâm trạng thương nhớ ấy chỉ biết kìm nén chặt trong lòng, không thể nào sử dụng lời lẽ thanh minh, hay thét lên cho nguôi ngoai những nỗi buồn.
Tâm trạng bâng khuâng thấp thỏm ấy còn được thể hiện hết sức tinh tế qua nhịp độ hai câu tiếp theo:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Cặp thơ lục bát được tác giả góp thêm một tí nhịp độ, như một đảo phách trong âm nhạc. Màu “áo chàm” đặc trưng của những con người chất phác miền núi Tây Bắc. Hình ảnh thấy thật đơn sơ, mộc mạc của chốn quê nghèo, nghèo vật chất nhưng luôn giàu tình cảm. Tấm áo ấy đã chất chứa biết bao mồ hôi, khó khăn vất vả, một nắng hai sương để đương đầu, nuôi dưỡng những anh lính cụ Hồ để những anh an tâm đánh giặc.
không phải áo bào, áo gấm để tiễn đưa, cảm ơn công lao của những anh, chỉ là bóng vía của những con người lao động nhưng sao vẫn khiến cho ta không khỏi cảm kích, hàm ơn. Tình cảm quyến luyến ấy còn được thể hiện qua hình ảnh “cầm tay”. Đôi bàn tay của những con người cầm súng ấm ấp, nâng niu đôi tay của những người lao động. Những đôi tay vất vả, sờn lên vì những vấn đề khác nhau, nhưng giờ phút ấy, đôi ta đều chung một nỗi tâm tình.
Hình ảnh giàu tính gợi hình, gợi xúc cảm, chẳng cần phải giãi bày nhiều vì có quá nhiều điều muốn nói, nhưng lại chẳng biết khởi đầu từ đâu. Nỗi lòng ấy, xin người để “ta” chôn chặt trong tim nhưng tình cảm sẽ sống mãi trong khoảnh khắc “cầm tay” ấy.
Đoạn thơ mở đầu của bài Việt Bắc đã vẽ nên những cung bậc xúc cảm hết sức đa dạng, sâu lắng của người đi kẻ ở. Nhịp thơ nhẹ nhõm, du dương để diễn tả một cách trọn vẹn, khéo léo những tình cảm tâm thành ấy đã cho thấy tài năng vượt trội của Tố Hữu trong số những thi sỹ tài hoa của Việt Nam.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 15
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Tố Hữu được biết tới với những tác phẩm mang đậm tính trữ tình – chính trị. Bàn về phong cách thơ độc đáo của ông, có ý kiến nghĩ rằng: “Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người”. Đặc trưng này đã được thể hiện rõ qua bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ trước tiên của thi phẩm này nói riêng.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tiếng nói giản dị mà tha thiết trong thơ Tố Hữu là giọng điệu của sự ngọt ngào, mang tính tâm tình, thủ thỉ sâu lắng, đằm thắm. Trong bài thơ Việt Bắc, để thể hiện nội dung về tình cảm cách mệnh, tác giả Tố Hữu đã sử dụng giọng thơ tâm tình để bộc lộ những xúc cảm nặng tình nghĩa.
Giọng điệu đó quyện hòa cùng nghệ thuật giàu tính dân tộc qua thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp “mình – ta” thân thuộc trong những câu ca dao và khúc hát dân ca, hệ thống tiếng nói bình dị cùng những hình ảnh thơ thân thuộc nhưng vẫn giàu sức gợi.
Dù viết về đề tài chính trị gắn với sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954 , sau khi hiệp nghị Giơnevơ được kí kết, những cơ quan trung ương của Đảng rời chiến khu Việt Bắc để trở về hoạt động tại thủ đô Hà Nội nhưng bài thơ Việt Bắc nói chung và tám câu thơ trước tiên vẫn hiện lên chất chứa xúc cảm của sự ngọt ngào, tha thiết.
Trong tám câu thơ trước tiên, tác giả đã tái tạo không khí bâng khuâng, lưu luyến trong những phút giây trước tiên của buổi chia ly giữa kẻ ở – người đi. Khúc dạo đầu được khơi gợi từ lời của những người ở lại:
“- Mình về mình có nhớ ta?Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ không?Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Trong lời ca của người dân Việt Bắc hướng tới những người đội viên, cán bộ cách mệnh, chúng ta có thể thấy được xúc cảm trữ tình sâu lắng qua điệp cấu trúc câu: “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?”. Sự láy đi láy lại của nghi vấn tu từ đã xoáy sâu vào trong nỗi nhớ và sự day dứt khôn nguôi.
Quãng đường đồng hành đầy tình nghĩa và “thiết tha mặn nồng” giữa nhân dân Việt Bắc và người đội viên cách mệnh đã được diễn tả qua khoảng thời gian “Mười lăm năm ấy”. Đó là những tháng ngày đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, gợi lên sự bao bọc của nhân dân: “Thương nhau chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”. Cuộc kháng chiến của dân tộc ta vì vậy luôn ngời sáng sức mạnh của ý thức kết đoàn và mang tính toàn dân.
Biết bao ân tình, gắn bó một lần nữa được gợi nhắc qua những hình ảnh “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn” – không gian thân thuộc nơi núi rừng ẩn dụ cho lối sống ơn nghĩa thủy chung. tương tự, qua bốn câu thơ đầu, chúng ta có thể thấy được giọng điệu tâm tình, thủ thỉ tràn đầy xúc cảm bâng khuâng, xao xuyến của đồng bào dân tộc.
Cuộc hội thoại trữ tình tiếp tục được tiếp nối qua lời đáp của người ra đi – những cán bộ đội viên cách mệnh:
” Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…”
Bốn câu thơ đã thể hiện rõ sự lưu luyến quyến luyến, dù chưa chia xa những viễn cảnh nhớ nhung đã hiện lên trước mắt. Đại từ “người nào” ngân vang cùng sự “tha thiết” đã nhấn mạnh vào tình cảm, xúc cảm đặc biệt của người ra đi và sự thấu hiểu đối với xúc cảm của người ở lại. Điều này khiến cho câu thơ giống như một câu trả lời gián tiếp khẳng định người ra đi sẽ mãi mãi không quên được “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” và luôn một lòng hướng về và nhớ tới “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn”.
Trạng thái này được xoáy sâu hơn nữa qua những tính từ mô tả xúc cảm như “bâng khuâng”, “thấp thỏm”. Hình ảnh người ở lại đã được khắc họa trong tâm tưởng của những đội viên cách mệnh qua hình ảnh hoán dụ “Áo chàm” – màu áo đặc trưng của đồng bào Việt Bắc. Cuộc chia ly cứ thế diễn ra trong sự bâng khuâng xúc động, và tất cả mọi xúc cảm nhường như nén lại: “Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”.
Chỉ với tám câu thơ trước tiên, chúng ta có thể thấy được tài năng của thi sĩ Tố Hữu trong việc sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và linh hoạt thể thơ lục bát – thể thơ dân tộc với những đặc trưng riêng trong cách gieo vần và nhịp độ. Đồng thời, kết cấu bài thơ được kiến tạo theo lối đối đáp giao duyên qua cặp đại từ “mình – ta” khiến lời thơ chất chứa yêu thương như những lời tâm tình của lứa đôi yêu nhau.
Câu chuyện cách mệnh, kháng chiến vốn thuộc ngành chính trị khô khan được tái tạo đầy tâm tình và sâu lắng như một câu chuyện tình yêu ngọt ngào, làm vượt trội tình cảm ân tình thủy chung, cao đẹp của tình nghĩa cách mệnh.
tương tự, qua tám câu thơ trước tiên, chúng ta có thể khẳng định: “Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc thì dù viết về vấn đề gì, thơ Tố Hữu vẫn luôn dễ đi vào lòng người”. Câu chuyện cách mệnh, kháng chiến mang tính chính trị, gắn với sự kiện lịch sử cụ thể vì vậy khi đi vào trang thơ “Việt Bắc” vẫn chất chứa xúc cảm và da diết, bổi hổi. Điều này đã thể hiện rõ đặc trưng chính trị – trữ tình trong phong cách thơ Tố Hữu. Đồng thời tạo nên nét đặc sắc và sức lôi cuốn của bài thơ.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 16
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tayMỗi thi sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữKhông trộn lẫn…”
Giống như mỗi người, sẽ sở hữu riêng cho mình một loại vân tay riêng, không giống bất kì người nào. Thì mỗi nhà văn, thi sĩ, cũng sẽ sở hữu một phong cách “một dạng vân chữ” riêng biệt. vì vậy, khi đọc những tác phẩm văn học, ta không thể trộn lẫn giữa Hồ Xuân Hương với Xuân Quỳnh khi cả hai cùng nói rất hay về thơ tình yêu người phụ nữ.
Và nổi lên trong phong trào dân tộc dân chủ, cùng sự phát triển của văn học nước nhà, ta nhớ tới Tố Hữu, những khổ thơ mượt mà như áng tóc trữ tình của ông, học được trong ca dao nhưng lại nổi lên một phong cách rất riêng của Tố Hữu, và ta được biết tới điều đó rõ hơn, thông qua 8 khổ thơ đầu bài thơ Việt Bắc.
Nói tới Tố Hữu là nói ngay tới cây đại thụ của làng văn. Ông mang trong mình một áng thơ ca chạy suốt chiều dài lịch sử, thơ văn viết về lịch sử là thế, nhưng trong đó lại mang đậm dấu ấn của một người con rất Huế, rất Việt Nam, lúc nào cũng tha thiết, lúc nào cũng vương vấn gợi tình.
Mình về mình có nhớ ta….Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay
Bài thơ Việt Bắc là một trong những tuyệt bút văn học rất tiêu biểu của tiếng thơ Tố Hữu. Ra đời trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp vừa giành thắng lợi. chủ toạ Hồ Chí Minh rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội tiếp quản. Lấy cảm hứng từ buổi chia tay mang ý nghĩa lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết ra áng thơ này. Việt Bắc như mang nặng hồn thiêng của sông núi, vì vậy, bài thơ tới sắp với trái tim người đọc, nhờ tính dân tộc đậm đã, được thể hiện đậm nét trong cả hai phương diện nội dung và phương thức.
Ta biết tính dân tộc trong một bài thơ, là một khái niệm thân thuộc, thuộc phạm trù tư tưởng- thẩm mĩ, và là mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa văn học và dân tộc. Tính dân tộc trong một bài thơ là cách thức thể hiện và nội dung có tính vững bền cho những sáng tác của dân tộc ta, được hình thành từ quá trình phát triển của dân tộc từ xưa tới nay. Và tính dân tộc, phải được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương thức.
Vì sao ca dao dân ca từ nghìn đời nay vẫn mới và vẫn luôn khiến ta cảm thấy mến thương tương tự. đơn thuần, bởi ca dao luôn mang đậm chất trữ tình, ngọt ngào, chất phác và sắp gũi, được thể hiện qua thể thơ lục bát uyển chuyển. Bắt nhịp và tiếp nối những trị giá cao quý đó của ca dao dân ca, Tố Hữu đã vận dụng nhuần nhuyễn để làm ra Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ taMười năm lăm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tính dân tộc trước hết thể hiện ở thể thơ lục bát thân thuộc, nhờ nó, ý thơ vốn uyển chuyển và đầy chất trữ tình của Tố Hữu càng được bộc lộ một cách rõ nét. Không những thế, Tố Hữu đã vận dụng khéo léo lối đối đáp vốn là phương thức thân thuộc trong ca dao, tiếng nói mượt mà, uyển chuyển, đặc tả tình cảm giữa mình – ta ngọt ngào sâu lắng, mà ta vốn thường hay gặp trong những câu ca dao viết về tình yêu lứa đôi.
Đoạn thơ đầu đặc tả nỗi nhớ của người ở lại dành cho người da đi, ngôn từ bình dị nhưng tha thiết và quyện chặt trong lòng kẻ đi người ở. Tình cảm người gắn bó keo sơn tựa như tình cảm lứa đôi, từ đó càng cho ta thấy sự kết đoàn của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến.
Hóa ra, dù có khó khăn cách trở về không gian, thời gian, trái tim của những người con đất Việt vẫn mãi gắn bó và dành cho nhau. Chỉ cần anh cần, tôi luôn có mặt. Những hình ảnh mang đậm tính dân tộc cũng được tả rõ nét, đó là “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” những cây, những núi, sông, nguồn, là những hình ảnh thân thuộc, vốn đã đi vào tiềm thức của người dân ta muôn thuở.
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay
Lời trước tiên là lời người ở lại dành cho người ra đi, vì thương nhớ, vì luôn canh cánh trong lòng, nên đoạn thơ này tựa như một lời đồng vọng thân yêu mà người ra đi đáp lại sức ở. Từ “người nào” là một đại từ phiếm chỉ, như ám chỉ hình ảnh tiếng hát da diết và mộc mạc của người dân vùng núi Việt Bắc, người đựng bước ra đi nhưng vọng trong hoài niệm, trong nhung nhớ vẫn luôn nghĩ về ân tình Việt Bắc, muối mặn gừng cay, phai chăng “Khi ta ở thìa là nơi đất ở/ khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” là vậy?
Những hình ảnh mang đậm tính dân tộc như “áo chàm” “cầm tay” mang một vẻ đẹp đơn sơ, giản dị nhưng êm ấm lắm. Những cái bắt tay mặn mà tình cảm, những tấm áo chàm là hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc, cầm tay thôi là đã nói lên tất cả, tiếng nói dần như cũng ngưng đọng lại, bổi hổi vì xúc cảm mà không nói thành lời.
từ đó, càng vượt trội rõ nên nét dân tộc truyền lại trong thơ Tố Hữu, đặc tả vẻ đẹp thủy chung, tình nghĩa, son sắt của người dân quê hương. Việt Bắc là sự kế thừa trọn vẹn những tinh hoa của văn học muôn thuở.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 17
Mỗi công dân có một dạng vân tayMỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữKhông trộn lẫn
(Vân chữ, Lê Đạt)
“Vân chữ” chính là phong cách nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ. Là lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách độc đáo. Thơ Tố Hữu mang tính trữ tình, chính trị sâu sắc, đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp độc đáo của Tố Hữu phải kể đến Việt Bắc – băn hùng ca, cũng là bản tình ca về Cách mạng kháng chiến và con người kháng chiến. Làm nên Việt Bắc, một bản tình ca thấm đẫm màu sắc dân tộc, phải kể đến khổ thơ:
Mình đi mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay
Tố Hữu là một tác gia có vị trí quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu cho Cách mạng Việt Nam. Tố Hữu đến với thơ và cách mạng cùng một lúc. Tập thơ Việt Bắc là một trong những bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh những chặng đường gian lao, anh dũng và những bước đi lên của cuộc kháng chiến cho đến ngày thắng lợi,
Mở đầu bài thơ là lời nhắn nhủ gợi khắc của đồng bào chiến khu. Lời nhắn nhủ chan chứa yêu thương, nhưng nhớ và phảng phất không khí li biệt của những lứa đôi từng in dấu trong ca dao, dân ca, giao duyên, giã bạn:
Mình đi mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Cán bộ về xuôi, đồng bào Việt Bắc, kẻ ở, người đi đã xưng hô một cách mộc mạc, giản dị thân thiết; “ta – mình”. Đó là cách xưng hô quen thuộc của những lứa đôi mà ta thấy trong lối nói của người Việt xưa. Cách xưng hô như vậy thắm thiết yêu thương gợi nhớ những khúc hát tình nghĩa trong ca dao dân ca. Nhắc đến mình ta là nhớ tới:
Mình về mình có nhớ taTa về ta nhớ hàm răng mình cười
Là không thể quên:
Mình về ta chẳng cho vềTa nắm vạt áo, ta đề câu thơCâu thơ ba chữ rành rànhChữ trung, chữ hiếu, chữ tìnhChữ trung thì để phần chaChữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình
Với cách xưng hô “ta – mình”, dường như Tố Hữu đã đem tất cả kí ức yêu thương tình nghĩa để phổ vào cuộc chia tay Việt Bắc giữa đồng bào kháng chiến với đồng bào chiến khu. Cuộc chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại bỗng ùa về trong dáng dấp của cuộc biệt li giữa những đôi lứa yêu nhau. Cuộc ân tình cách mạng đã hóa thành hàng loạt lời hỏi tha thiết vừa để dò hỏi, khám phá sự nhắn nhủ của cán bộ về xuôi, vừa để tỏ bày nỗi nhớ niềm thương đang đong đầy cõi lòng mình. m điệu thơ, lời thơ vừa xao xuyến, bâng khuâng vừa da diết khắc khoải. Bao kỉ niệm, nghĩa tình suốt 15 năm gắn bó ghim lại trong mấy chữ tha thiết, mặn nồng. Nỗi nhớ, niềm thương da diết trong lòng người ở lại không chỉ ở bên trong những câu hỏi mà còn kín đáo thể hiện nghệ thuật điệp. Hàng loạt điệp từ, điệp cấu trúc đan kết vào nhau khiến điệu thơ da diết, quyến luyến, hằn sâu một nỗi nhớ thương. Đặc biệt là từ nhớ điệp lại bốn lần. Có phải chăng nhớ thương như lớp sóng biển dào dạt, vô hồi, vô hạn?
Đáp lại lời nhắn nhủ tha thiết của đồng bào chiến khu là sự im lặng lắng nghe của đồng bào miền xuôi. Im lặng mà cõi lòng bồi hồi xúc động: Tiếng người nào tha thiết bên cồn. Người ở lại gợi nhắc niệm tha thiết, mặn nồng, người ra đi lắng nghe được Tiếng người nào tha thiết bên cồn. Kẻ ở, người đi thực sự tâm đầu, ý hợp, trái tim có lẽ đã hòa chung một nhịp nên mới có sự hiểu thấu đồng điệu như vậy. Đại từ phiếm chỉ người nào được dùng thật khéo léo. Nó gợi nhắc bao áng ca dao, dân ca da diết, nhớ thương, nhung nhớ:
Nhớ người nào ra ngần vào ngơNhớ người nào người nào nhớ bây giờ nhớ người nào
Hoặc
người nào đi muôn dặm non sôngĐể người nào chất chứa sầu đong vơi đầy
Tâm trạng người đi được biểu đạt một cảm động:
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Câu thơ tám chữ ngắt nhịp 4/4 chia hai vế cân xứng. Một vế bộc lộ nội tâm, một vế bộc lộ dáng vẻ. Tất cả cùng chung cảm xúc lưu luyến nhớ thương. Cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến; bước chân bồn chồn bối rối. Khúc thơ đầu khép lại một cảnh chia tay đầy bịn rịn:
Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay
Hình ảnh đổng bào Việt Bắc trong buổi chia li hiện lên qua cái nhìn của cán bộ kháng chiến thật giản dị, gần gũi với màu áo tràm thân yêu. Màu áo tràm ấy ghi dấu truyền thống nghĩa tình thủy chung của đồng bào chiến khu. Câu thơ Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay gợi cảnh chia tay đầy xúc động. Đồng bào và cán bộ, kẻ ở người đi, tay trong tay trao tương đối ấm, yêu thương, quyến luyến, bịn rịn không nỡ, buông rời. Có khác nào nỗi biệt li của những lứa đôi yêu nhau thắm thiết:
Nhủ rồi nhủ rồi lại cầm tayBước đi một bước giây giây lại dừng
(Chinh phụ ngâm)
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 18
Mỗi khi nhớ tới thi sĩ Tố Hữu người ta sẽ nhớ tới một con người đội viên cách mệnh. Ông là người đi tiên phong trong phong trào nghệ thuật được gắn liền với sự nghiệp phóng thích dân tộc của nước ta. tuyến đường sáng tác nghệ thuật của tác giả Tố Hữu luôn gắn với tình cảm yêu quê hương quốc gia với sự nghiệp đấu tranh phóng thích dân tộc của quê hương Việt Nam.
Tác giả Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ hay nói lên tình cảm yêu nước của quê hương mình, tình cảm quân dân gắn bó. Trong đó, bài thơ “Việt Bắc” là một bài thơ hay đặc sắc thể hiện văn pháp nghệ thuật điêu luyện tài tình của tác giả Tố Hữu khi phối hợp giữa đỉnh cao giữa nghệ thuật và chính trị. Đó là một sự phối hợp vô cùng nhuần nhuyễn uyển chuyển không hề gây cảm giác khó chịu cho người đọc.
Trong bài thơ “Việt Bắc” khổ thơ trước tiên mang tới cho độc giả những xúc cảm vô cùng nghẹn ngào về tình cảm quân và dân vô cùng thắm thiết gắn bó với nhau như người thân trong cùng một gia đình.
Bài thơ “Việt Bắc” được tác giả Tố Hữu sáng tác trong hoàn cảnh khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nước ta đã thắng lợi hoàn toàn.
những người đội viên cách mệnh quân nhân cụ Hồ sau 15 năm sống tại vùng núi Việt Bắc gắn bó với đồng bào dân tộc nơi đây, được những người dân nơi đây nuôi giấu chia sẻ từng bát cơm, từng củ khoai củ sắn trong những ngày kháng chiến khốc liệt, gắn bó như ruột thịt như người thân trong cùng một gia đình. Nhưng nay khi Miền Bắc nước ta hoàn toàn sạch bóng quân thù thì người đội viên của chúng ta phải trở về xuôi về lại quê hương của mình nhận nhiệm vụ mới.
Cuộc chia tay quyến luyến, thể hiện tình cảm gắn bó thắm thiết. Những lời nói trước khi lên đường khiến cho người dân vô cùng xúc động không nói nên lời giữa cảnh ly biệt kẻ ở người đi. Mở đầu bài thơ tác giả Tố Hữu đã ra những lời thương nhớ được ấp ủ ở trong lòng từ rất lâu rồi. Thể hiện nỗi niềm trĩu nặng của người ra đi cũng như người ở lại:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Tác giả Tố Hữu đã sử dụng cách xưng hô truyền thống thường gặp “Ta và mình” là phong cách xưng hô thường thấy trong ca dao, tục ngữ, dân ca ở nước ta. Đồng thời cho thấy tình cảm gắn bó thân thiết máu thịt của những con người nơi đây với những đội viên cách mệnh như người một nhà, như tình cảm vợ chồng, anh em, mẹ con, nên ta và mình sao thật sắp gũi, thân thiết, keo sơn.
Điệp từ “Nhớ” được tác giả Tố Hữu sử dụng nhiều lần nhằm nhấn mạnh sự nhớ nhung khi xa vắng, một nơi tuy không phải là quê hương của những đội viên cách mệnh nhưng lại có rất nhiều kỉ niệm thân thiết, vào sinh ra tử chẳng khác nào quê hương thứ hai của những người lính cụ Hồ.
Biết bao nhiêu kỉ niệm những người đội viên đã cùng những người dân đồng bào nơi đây cùng trải qua với nhau. Họ cùng nhau đánh đuổi quân thù, miếng cơm được chia một nửa, mà mảnh chăn cũng đắp cùng, thể hiện một tình cảm gắn bó hơn cả người thân ruột thịt trong một gia đình. những người dân đồng bào vùng núi Việt Bắc tuy không phải là anh em cha mẹ, nhưng chẳng khác nào anh em cha mẹ của những người đội viên trong mười lăm năm qua.
“Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước đi”
Trong hai câu thơ thể hiện tình cảm gắn bó của những người lính với bà con đồng bào nơi đây. Những tiếng nói tha thiết âm vang mãi trong lòng mỗi người lính của chúng ta.
Nó chính là tiếng lòng, tiếng gọi của những con người từng một thời tử sinh gắn bó, có những khi kế cận cái chết nhưng họ vẫn luôn sát cánh bên nhau, giờ phải chia ly kẻ đi người ở nên tâm trạng không khỏi vương vấn xúc động nghẹn lời. Những tâm trạng nhớ nhung chỉ biết kiềm chế ở trong trái tim không thể nói nên lời hay gào thét lên cho nguôi ngoai nỗi lòng, khiến cho cảnh chia ly càng trở nên buồn hơn bao giờ hết.
Áo chàm đưa buổi phân ly,
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay.
Câu thơ được tác giả Tố Hữu viết theo thể thơ cựu truyền lục – bát vừa dễ nhớ lại dễ thuộc, cách gieo vần cũng như nhịp độ vô cùng sinh động làm cho bài thơ trở nên vô cùng hấp dẫn, và tạo nên âm hưởng nhạc họa trong bài thơ.
Màu sắc của áo chàm chính là màu y phục của những người dân đồng bào dân tộc vùng núi tây Bắc. Một hình ảnh thân thuộc giản dị gắn bó với những người đội viên cách mệnh, nhưng ngày hôm nay khi chia ly màu áo chàm lại gợi lên những xúc cảm bổi hổi bâng khuâng. Hình ảnh giàu tính xúc cảm gợi cảm nên phải thể hiện những tình cảm tâm thành gắn bó. Những tình cảm tâm thành giữa người đi và người ở lại, tình nghĩa quân dân.
Khổ đầu của bài thơ “Việt Bắc” tác giả Tố Hữu nói lên cung bậc xúc cảm vô cùng tâm thành sâu sắc của tác giả. Nhịp thơ vô cùng nhẹ nhõm sâu sắc, thể hiện một tình cảm vô cùng gắn bó keo sơn giữa người lính cách mệnh và người dân vùng núi Tây Bắc nơi những đội viên đóng quân.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 19
Nhớ về giai đoạn 1945 – 1975, độc giả đều khắc khoải những giây phút đương đầu hào hùng, những gian khổ khắc nghiệt của bom đạn chiến tranh. Và chính hoàn cảnh đó đã sản sinh ra Những ngòi bút cách mệnh tiêu biểu cho một thời kì văn học dân tộc. nếu như Phạm Tiến Duật hay Quang Dũng viết về gian khổ bằng giọng thơ tươi trẻ, yêu đời, thì Tố Hữu lại đi vào lòng độc giả nhờ cái trữ tình, lắng sâu của lời thơ. Tám câu thơ mở đầu “Việt Bắc” là minh chứng rõ nét cho phong cách thơ Tố Hữu.
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra và lớn lên nơi xứ Huế mộng mơ. Phải chăng chính đất và người nơi đây đã đọng lại trong tâm hồn thi sĩ chất nhẹ nhõm, duyên dáng, rất thơ, rất Huế. Ở thi nhân có sự hòa quyện thống nhất giữa thế cục cách mệnh và thế cục thơ.
Ông lựa chọn tuyến đường cách mệnh từ thời niên thiếu, viết thơ cũng là viết cùng chặng đường lịch sử của cả dân tộc. Bởi vậy, Tố sở quan niệm: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. thi sĩ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn.” Và Việt Bắc chính là áng thơ được kết tinh từ tư tưởng chính trị vững vàng cùng trái tim ấm nóng luôn hướng về quê hương quốc gia của thi sĩ.
Bài thơ ra đời trong không khí hoan hỉ của quân và dân sau thắng lợi Điện Biên Phủ lịch sử, trong giây phút những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình khúc về cách mệnh, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, quốc gia trong niềm tự hào dân tộc. Tám câu thơ mở đầu đã dội nên bao nỗi niềm thân yêu, lưu luyến trong tâm tình người đội viên khi rời xa đồng bào vùng cao để trở về.
Cuộc chia tay đầy quyến luyến, tiếc nuối hiện ra qua giọng thơ ngọt ngào, trữ tình của Tố hữu.
Mình về mình có nhớ ta?Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ không?Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Đoạn thơ nương theo điệu hồn truyền thống từ thể thơ tới cách xưng hô, gợi một nỗi niềm bình dụi, thân thuộc. Tố Hữu tìm về với văn học cổ để khai phá cái tình, cái tứ trong thẻ thơ lục bát bình dị, tạo âm hưởng hội thoại tâm tình giữa quân và dân.
Giữa đồng bào và người lính, giữa những đồng đội không phải là “anh – tôi” như trong “Đồng chí” (Chính Hữu), không phải “nàng, em” trong lời thơ Tây Tiến (Quang Dũng), tình cảm son sắt, thắm đượm ấy đã trở thành “mình – ta”. Lối xưng hô thân thuộc trong ca dao dân ca xưa vừa gợi nét êm ấm, thân tình, vừa tạo nên nét độc đáo trong ngòi bút khám phá của Tố Hữu.
Với thi sĩ, tình quân dân cũng ấm nồng như tình cảm gia đình, cần sự thủy chung, gắn bó bền chặt không rời. Lời thơ là lời của người ở lại nói với người ra đi rằng: sau khi trở về thành thị phồn hoa rồi, liệu lòng người có còn vương vấn chút gì nơi đây, có nhớ “mười lăm năm” kháng chiến gian khổ, có nhớ núi rừng đồng cỏ nơi đây hay không. Nỗi niềm ấy cứ day dứt trong lòng người ở lại.
Ngay sau cụm từ “mười lăm năm” dài đằng đẵng ấy là hình ảnh của non sông suối nguồn miền cao, gợi cho độc giả cảm giác mênh mang, chơi vơi của nỗi nhớ, nó đã trải ra khắp không gian, thấm đượm vào từng vết hằn của thời gian đời người. Câu thơ chất chứa cái tình, cái nghĩa của người ra đi và người ở lại, hay cũng chính là cái gắn bó sâu đậm của đồng bào miền ngược với những đội viên miền xuôi.
Tiếng người nào tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, thấp thỏm bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay…
Nhớ về Việt Bắc, người lính nhớ thiên nhiên đại nghìn hùng vĩ, nhớ về những tháng ngày đương đầu gian khổ và đặc biệt hơn cả là nhớ về trái tim của những người ở lại. “Tiếng người nào” – tiếng người ở lại hay tiếng người ra đi, thi sĩ không nói rõ nhưng dù là của người nào cũng đều bâng khuâng, thấp thỏm không yên. Phải chăng đó là nỗi lòng người lính khi phải rời xa chốn thân yêu này, bổi hổi, lưu luyến không thể đựng bước.
Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ vô cùng tinh tế “Áo chàm đưa buổi phân ly”. Áo chàm là y phục truyền thống của đồng bào dân tộc trên vùng cao, sử dụng hình ảnh áo chàm để khắc họa lên hình ảnh con người, vừa kín đáo, vừa giàu trị giá nghệ thuật, Lời thơ trở nên mềm mại, giàu hình ảnh hơn.
Trong giờ phút chia tay ấy, mọi người đứng sắp nhau, nắm tay nhau. Bao kỉ niệm, bao lời giãi bày đều không thể đựng nên thành tiếng. Khoảng lặng vô định bỗng cướp đoạt bầu không gian, là lúc tiếng lòng đựng lời. Chỉ nhìn nhau, chỉ nắm tay nhau cũng đủ hiểu nhau. Đó là biểu hiện của sự kết đoàn, gắn bó keo sơn suốt bao năm tháng.
Chỉ bằng những hình ảnh giản dị, tiếng nói giàu hình ảnh, thi sĩ đã khắc họa nên bức tranh buổi chia tay vô cùng ấm nồng, cảm động. Con người, thời gian, không gian như hòa làm một. Tình cảm quân dân, đồng chí- đồng bào đã trở thành tình yêu quốc gia.
Bằng tài năng nghệ thuật cùng tâm hồn nhạy cảm, tha thiết với cách mệnh, Tố hữu đã tái tạo lại quang cảnh buổi chia tay đầy xúc động của đồng bào dân tộc miền núi với đội viên khi về xuôi. Từ đó làm ngời sáng lên vẻ đẹp của tình cảm quân dân gắn bó, thắp lên hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn.
Viết bài văn cảm nhận khổ 1 Việt Bắc – Mẫu 20
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Thơ ông mang thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, đậm chất trữ tình. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại nhiều tác phẩm có trị giá như tập thơ “Từ ấy”, “Máu và hoa”… trong đó tiêu biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc”,Bài thơ đã thể hiện một cách thành công nỗi nhớ nhung, tâm trạng bổi hổi, lưu luyến trong buổi chia tay của người Việt Bắc với cán bộ cách mệnh. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
…..
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Việt Bắc là căn cứ địa cách mệnh, là cái nôi kháng chiến. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954 hiệp nghị Giơ-ne-vơ được kí kết. Tháng 10 năm 1954 Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”.
Câu thơ mở đầu là một nghi vấn tu từ chứa nhiều xúc cảm:
“Mình về mình có nhớ ta”
“Mình” là chỉ người ra đi – người đội viên cách mệnh, “ta” chính là người Việt Bắc. nghi vấn chính là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng khi người đội viên cách mệnh về xuôi rồi còn có nhớ tới người Việt Bắc hay không? Với cách xưng hô “mình – ta” đậm chất ca dao cùng với điệp từ mình đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó thân thiết đầy yêu thương, làm cho nỗi nhớ càng trở nên day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc muốn hỏi người kháng chiến có nhớ:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Mười lăm năm là từ chỉ thời gian, là khoảng thời gian gắn bó keo sơn giữa người đội viên và người Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian dài cùng nhau đương đầu, cùng nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả không sử dụng từ “đó” như để làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời thể hiện sự trân trọng của tác giả với những tháng ngày gắn bó.
Những từ “thiết tha”, “mặn nồng” là những từ nhấn mạnh tình cảm gắn bó keo sơn giữa người Việt Bắc và người cách mệnh. từ đó tác giả muốn nhấn mạnh hơn về tình nghĩa thủy chung son sắt luôn hướng tới cách mệnh, hướng tới những người đội viên của người dân Việt Bắc.
Câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người đội viên cách mệnh:
“Mình về mình có nhớ không”
Vẫn là nghi vấn tu từ, vẫn là cách xưng hô “mình” nhưng đây là nghi vấn vang lên như một lời nhắc nhở “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở người đội viên cách mệnh về xuôi hãy nhớ tới Việt Bắc, hãy:
“Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Khi về tới Hà Nội, người cách mệnh khi nhìn thấy cây ở Hà Nội phồn hoa thì hãy nhớ tới núi rừng nơi Việt Bắc. Hãy nhớ nơi gắn bó thủy chung, son sắc, nơi người cách mệnh và người Việt Bắc đã cùng đương đầu, cùng nhau vượt qua bao gian khổ. Khi nhìn thấy sông thì hãy nhớ tới nguồn, hãy nhớ tới sông núi Việt Bắc, nhớ tới những dòng sông cùng những đội viên cách mệnh đương đầu.
Hay đó chính là lời nhắc nhở của người Việt Bắc đối với người đội viên cách mệnh khi trở về xuôi nhìn thấy cảnh vật nơi phồn hoa đô thị tươi đẹp ấy thì hãy nhớ tới con người Việt Bắc, nhớ tới những tháng ngày đương đầu gian khổ nơi núi rừng đầy hiểm trở, cheo leo. Điệp từ “nhìn” và “nhớ” nhường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người cách mệnh luôn nhớ về nơi Việt Bắc. Nơi có những con người sắt son, thủy chung, luôn mong nhớ về người cách mệnh.
Bốn câu thơ trước tiên là lời của người Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi. Với lối đối đáp cách xưng hô “mình – ta”, điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là phối hợp với nghi vấn tu từ đã cho thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung son sắt của người Việt Bắc. từ đó ta có thể cảm nhận được phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây. Dù phải sống trong khó khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn nhưng tình yêu của họ đối với người đội viên là không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và mãnh liệt.
Vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ là lời của người Việt Bắc mà còn là câu trả lời của người cách mệnh dành cho Việt Bắc:
“Tiếng người nào tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Với đại từ nhân xưng “người nào” đó chính là tiếng lòng của người Việt Bắc vang vọng như muốn gọi người đội viên ở lại, hay đó chính là tiếng lòng của người đội viên không muốn chia xa. Từ “tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho ta cảm nhận được tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mệnh như vô cùng sâu nặng. Câu thơ tiếp theo càng làm rõ hơn điều đó:
“Bâng khuâng trong dạ thấp thỏm bước đi”
Từ láy “bâng khuâng”, “thấp thỏm” chính là để chỉ tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” là trạng thái lưu luyến day dứt, như còn lâng lâng một điều gì đó sâu sắc lắm trong tình cảm của mình. Nó khiến cho tâm trạng của con người day dứt tới khó chịu ,”thấp thỏm” là chỉ sự ray rứt trong tâm trạng của con người như lo lắng điều gì đó. Tất cả đã tạo nên tâm trạng của người đội viên cách mệnh về xuôi, khi trở về xuôi vẫn còn mang trong mình nỗi nhung nhớ, day dứt khôn nguôi, cả sự lo lắng trong tâm trạng của người cán bộ cách mệnh.
từ đó ta có thể cảm nhận được tình cảm của người cách mệnh đối với Việt Bắc cũng sâu nặng không kém gì tình cảm của người Việt Bắc dành cho họ.
Hai câu thơ cuối là hình ảnh chia tay đầy nước mắt giữa người đội viên cách mệnh và người Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
“Áo chàm” là màu áo nâu, màu áo của người nông dân nghèo khổ, cực nhọc, vất vả quanh năm suốt tháng lao động chuyên cần để phục vụ cho cách mệnh. Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là để chỉ người Việt Bắc. những người Việt Bắc ra tiễn những người cách mệnh về xuôi trong một tâm trạng day dứt, bâng khuâng.
Từ “phân li” như thể hiện buổi chia tay ấy như là sự chia cắt. nhường như họ không muốn rời xa nhau nhưng do hoàn cảnh họ phải chia li, xa rời nhau mỗi người một nơi. từ đó thể hiện nỗi tiếc thương nhung nhớ, khẳng định tình cảm gắn bó sâu đậm của người Việt Bắc và người đội viên cách mệnh. Tình cảm ấy được khẳng định rõ ràng hơn trong câu thơ cuối:
“Cầm tay nhau biết nói gì ngày hôm nay”
Không phải không có gì để nói mà là có quá nhiều điều để nói, không thể nói hết và không biết nói điều gì trước tiên, từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm gắn bó keo sơn, mười lăm năm cùng nhau vượt qua bao khó khăn gian khổ tình cảm của họ quá sâu đậm, có quá nhiều điều để nói nhưng những lời nói ấy vì sao không thốt nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà thứ trào ra chỉ có nước mắt của sự chia li.
Không nói ra được họ chỉ biết cầm tay nhau, chỉ hành động “cầm tay” thôi đã cho ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng giữa họ. Hành động “cầm tay” thay cho những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ nhường như được truyền hết qua hành động ấy. Đó còn là sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa đã nhớ của người đội viên cách mệnh và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.
Tám câu thơ ngắn gọn nhưng mang biết bao ý nghĩ. từ đó cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm thủy chung son sắt, gắn bó sâu nặng giữa người Việt Bắc và người cán bộ cách mệnh về xuôi. từ đó ta thấy được tâm trạng bổi hổi lưu luyến day dứt của họ. Không chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ còn thành công về nghệ thuật. Với lối đối đáp, cách xưng hô mình – ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn từ bình dị, mặn mòi tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Qua đoạn thơ ta đã cảm nhận được một cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, tình yêu thương mà người Việt Bắc và người cán bộ cách mệnh dành cho nhau. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Những ân tình ấy sẽ sống mãi trong lòng người đọc ngày hôm nay và ngày mai.
********************
Cảm nhận khổ 1 Việt Bắc để thấy nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc từ đó truyền tụng phẩm chất tốt cách mệnh đẹp của quân dân ta, khẳng khái niệm tình thủy chung son sắt của người cán bộ đội viên đối với Việt Bắc.
Đăng bởi: Cmm.edu.vn
Chuyên mục: Giáo Dục
Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)
Bạn thấy bài viết Cảm nhận khổ 1 Việt Bắc ngắn gọn, hay nhất (20 Mẫu) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Cảm nhận khổ 1 Việt Bắc ngắn gọn, hay nhất (20 Mẫu) bên dưới để Blog Giới Trẻ có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: gioitre.biz của Blog Giới Trẻ
Nhớ để nguồn bài viết này: Cảm nhận khổ 1 Việt Bắc ngắn gọn, hay nhất (20 Mẫu) của website gioitre.biz
Chuyên mục: Văn Học