Đề bài: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy triết lí sống của một nhân cách lớn
Bài giảng: Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) – Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên )
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Ông là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại cho dân tộc hai tập thơ chữ Hán và Nôm: Bạch Vân Am thi tập (khoảng 700 bài chữ Hán) và Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy triết lí giáo huấn, ca ngợi ý chí của những kẻ ngu dốt, những thú nhàn tản và phê phán những điều xấu xa trong xã hội. Nhàn là một bài thơ Nôm trích trong Bạch Vân Quốc Ngữ.
Một ngày, một cuốc, một cần câu
Thơ dù ai, vui gì
Tôi khờ dại, tôi đang tìm một nơi bình yên
Người khôn người đến chọn lao xao.
Thu ăn măng, đông ăn giá,
Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao hồ.
Rượu đến gốc cây ta uống,
Thấy phú quý như mộng.
Bài thơ Nhàn trong Bạch Vân Quốc ngữ thuộc đề tài triết học xã hội, trong đó tập trung nhất là triết lý Nhàn. Có người từng cho rằng, Nhân nghĩ, triết lý là một chủ đề lớn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói chung. và Bạch Vân Quốc Ngữ nói riêng. Nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là cứu cánh mà là một lối suy nghĩ triết lý. Do đó, giải trí là một khái niệm từ, không phải là một tâm trạng.
Tĩnh tâm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những biểu hiện tích cực và tiêu cực.
Yếu tố tích cực của chữ Nhân ở chỗ: Nhân là dòng sông tự nhiên, sống hài hòa với thiên nhiên để tâm hồn thanh thản.
Chúng ta sẽ thấy rất rõ những điều này qua việc đi sâu phân tích bài thơ Nhàn trong Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của ông.
Một quả mận, một cái cuốc, một cần câu
Thơ dù ai có vui.
Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng liên tiếp số một để nhấn mạnh hoàn cảnh sống của mình khi về quê. Với những dụng cụ quen thuộc, chiếc vỏ sò, chiếc cuốc, chiếc cần câu và có thể là cả con người, cuộc sống ở đó. Con số một tượng trưng cho sự cô đơn, lẻ loi của Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa vùng quê nghèo, ông làm bạn với những nông cụ quen thuộc như đào mai, xẻng, cuốc, cuốc sau lưng. cần câu để chứng tỏ dù làm lụng vất vả, ông vẫn giữ thú chơi tao nhã, thanh đạm của người Việt, đó là câu cá. Con số một tượng trưng cho sự cô đơn, trong một câu thơ nhà thơ đã sử dụng đến ba con số từ một để nhấn mạnh sự cô đơn, trống vắng của một con người đầy nghị lực phải sống cuộc đời ẩn dật. Nhưng đằng sau ba số từ một cũng là một loạt danh từ mai, cuối, cần câu, có thể sau ba chữ, một đằng trước… chứ không phải sau một chữ. Chắc chắn sau ba danh từ đó không thể có một danh từ ẩn sau đó. Đó là cuộc sống, con người, công việc của người nông dân ấy tuy vất vả nhưng rất ấm áp, gần gũi. Thế thì chỉ có gần gũi, vui thú với thú chơi câu cá tao nhã, tao nhã mới có thể khiến nhân vật trữ tình của chúng ta bâng khuâng không cần bận tâm đến người khác nói gì, nghĩ gì, làm gì. Miễn là điều khiển được, chúng ta có thể vui vẻ, hài hòa.
Thơ dù ai có vui.
Khổ thơ đầu 2/2/3 thể hiện sự khẳng định, quả quyết và có thể cả sự bất chấp.
Quả mận/cuốc/cần câu
Nhịp thơ đã tạo cho câu thơ một sự chuyển mạnh, không chỉ là một lời khẳng định thông thường về những gì ta đã trải qua, mà qua đó tác giả muốn khẳng định quyết tâm vượt qua khó khăn, gian khổ trong cuộc sống nhiều cung bậc cảm xúc. hỗn loạn, thay đổi. Và từ đó có thể thấy nhân vật trữ tình rất thân thương, thanh đạm nhưng gần gũi, ấm áp tình người. Đó là lý do tại sao có sự thay đổi trong câu sau:
Thơ dù ai có vui.
Nhịp thơ 4/3 là sự chậm lại của cảm xúc, tâm trạng và nó mang đến một niềm ấm áp, vui sướng cho nhân vật trữ tình khi tìm được con đường sống của mình tại đây. Với mong muốn được sống hòa mình với thiên nhiên để tâm hồn được thanh thản, hạnh phúc, nhà thơ của chúng ta đã rời xa chốn xô bồ để về với chốn thanh vắng.
Tôi khờ dại, tôi đang tìm một nơi bình yên
Người không, người đến chỗ loạn.
Tự nhận mình là kẻ ngu, tác giả ngu vì đã rời xa chốn đô thị náo nhiệt mà về sống ẩn dật, vất vả nơi miền quê nghèo. Nhưng nó có ngu ngốc vì điều đó không? Và khôn ngoan làm sao, không sống ở nơi hạnh phúc, đầy gấm lụa, ấm cúng, ấm cúng, và đó là lý do tại sao không. Và khôn ngoan biết bao, dại dột biết bao khi tìm được nơi chôn nhau cắt rốn và nơi vắng vẻ.
Đặt câu thơ vào hoàn cảnh sống của tác giả, ta sẽ thấy được quan niệm về chốn hoang vu và liêu xiêu hay quan niệm về dại và khôn. Hoang vắng nơi đây là cuộc sống đạm bạc với bao khó khăn, thiếu thốn nơi thôn quê. Chỉ có những người dám coi thường danh lợi, coi thường vật chất, coi của cải chỉ là hư không, mới có thể ngu xuẩn đến nơi vắng vẻ. Còn nơi sầm uất là nơi ngựa xe tấp nập, nơi hạnh phúc viên mãn, cuộc sống đối lập hoàn toàn với nơi vắng vẻ và chỉ dành cho những người trí huệ, những người coi trọng danh lợi, vật chất. như cuộc sống là để sống và muốn sống ở đó. Tác giả đã dùng hai từ hoang vắng và hỗn độn để miêu tả hai địa điểm khác nhau. Sự vắng bóng của lá tạo nên nét mộc mạc, bình dị và yên bình của vùng quê. Còn chữ thì như có tiếng reo vui, của nhịp sống hối hả của thành phố. Và từ đây ta có thể hiểu nơi vắng vẻ là vùng quê, thanh bình, còn nơi sầm uất là nơi thủ đô náo nhiệt. Nhưng cái gì là không và cái gì là ngu xuẩn? Chọn một nơi vắng vẻ là để tránh xa nhịp sống hối hả đầy hối hả, nhộn nhịp và nhiều nguy hiểm. Và khi tránh được những điều đó thì tác giả dại hay khôn. Sống nơi đô thị xa vắng yên bình, trong lành khi bước chân vào chốn đông người là khôn hay dại. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng nghệ thuật sóng đôi trong hai câu thơ này để thể hiện sự đối lập, tương phản, thậm chí đối lập hoàn toàn với sự xung đột của hai nơi sống, hai quan điểm sống và hai sự lựa chọn. .
Tôi dài / Tôi đang tìm một nơi cô đơn
Người khôn người đến chọn lao xao.
Ta đối người, dại với khôn, ta tìm cho kẻ đến (thể hiện sự lựa chọn qua hai từ tìm và bỏ) nơi vắng vẻ so với nơi náo nhiệt. Đây có lẽ là hai câu hay nhất của bài thơ. Bằng nghệ thuật đối lập, bằng ý nghĩa tư tưởng của hai câu được nói. Hai câu thơ đối xứng nhau một cách tuyệt đối cả về từ ngữ lẫn giọng điệu tạo nên sự khác biệt, đối lập nhằm khẳng định lại một lần nữa cách sống, cách lựa chọn của tác giả?
Hai câu tiếp diễn tả cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở vùng quê nghèo, thanh đạm với những sản vật riêng chỉ có ở vùng quê.
Mùa thu ăn măng, mùa đông ăn giá
Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao hồ.
Cuộc sống ở nông thôn tuy còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng cũng có những thú vui riêng và được thưởng thức những món ăn rất bình thường nhưng rất ngon. Chỉ có măng và giá nhưng tất cả đều ngon dù bình thường vì luôn có sẵn trong nhà. Tuy nhiên, khi ăn, bước đầu chúng ta cảm nhận được vị ngon của nó nhờ sự đồng điệu, đồng cảm của con tim với trái tim. Vì đã nhiều lần Nguyễn Bỉnh Khiêm nói:
Những câu đơn giản đọc qua ngày.
Hoặc:
Sự thanh thản đó phải là vị khách đầu tiên
Qua hai câu thơ 5 và 6 này, ta thấy được cuộc sống của tác giả ở thôn quê thật đạm bạc mà nhàn hạ. Bạc ăn hỏi chỉ là món măng và giá nhưng nhàn nhã, hài hòa với thiên nhiên.
Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao hồ.
Chỉ có ở thôn quê mới nói lên được vùng vẫy, được thả hồn vào thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên để cảm nhận hết những niềm vui lạc quan trong cuộc sống.
Nếu chỉ đọc lướt qua, chúng ta chỉ thấy đây là hai câu thơ miêu tả cuộc sống nơi thôn dã của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng sâu xa trong đó lý tưởng sống của ông là khát vọng được sống hòa hợp với thiên nhiên. Ăn những thức ăn chỉ có thiên nhiên mới hòa quyện với thiên nhiên khiến ta mở rộng tâm hồn, vùng vẫy ôm lấy thiên nhiên vào lòng và cũng chính thiên nhiên ôm lấy ta để vực dậy sức sống, làm tươi mới tâm hồn. Chỉ có thiên nhiên tươi đẹp mới làm cho tâm hồn ta bình yên và ấm áp. Nếu phải đánh đổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm sẵn sàng đánh đổi phú quý để hưởng thụ cuộc sống này, hưởng nhàn.
Muốn rẻ, muốn nhàn nhã.
Dường như thi nhân nào cũng không tránh khỏi một thú vui, không thể thiếu trong đời đó là rượu, và Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không tránh khỏi niềm say mê với thú vui đó:
Rượu lên cây ta uống
Thấy phú quý như mộng.
Đây là hai câu thơ có tích Thuần Vu Phân uống rượu say ngủ dưới gốc cây. Ông mơ thấy mình ở nước Hồ An, được vinh hoa phú quý. Nhưng khi tỉnh dậy chỉ là mộng, thấy nhánh nam chỉ còn một tấc kiến khô. Ví dụ này để chỉ sự giàu có chỉ là giấc mộng.
Chính vì quan điểm này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không màng đến danh lợi bởi danh lợi, phú quý chỉ là phù phiếm và chỉ như một giấc mộng chóng qua.
Muốn rẻ, muốn nhàn nhã.
Hoặc:
Lại thấy dặm đường thênh thang, tôi thong dong.
Chữ nhàn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhân đôi với tất cả chữ nhàn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là nhàn chứ không phải nhàn. Tuy nhàn hạ nhưng vẫn lo cho đất nước và cuộc sống.
Hai câu kết tác giả muốn khẳng định rằng tiền bạc, của cải chỉ là phù phiếm, nó sẽ nhanh chóng mai một theo thời gian, vì vậy phương châm sống là không chỉ luôn mong tiền tài, danh vọng.
Tuy từ nhàn có những hạn chế như: nhiều yếu tố nhàn, nhàn, an khá đậm. Đặc biệt, một Nho sĩ như Nguyễn Bỉnh Khiêm, vốn chuộng văn hiến, chủ trương yên dân, chủ trương nước nhà loạn lạc, dân chúng khốn khổ, lầm than chẳng hại gì. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm mong rằng với những vần thơ triết lí này của mình, ông giữ được tâm hồn, nhân cách của mình để cuộc sống con người hài hoà, hoà hợp với lí lẽ của tự nhiên và xã hội.
Nhàn là một triết lý sống để giữ gìn phẩm giá trước sự tranh giành danh lợi, trước sự suy đồi đạo đức:
Có một thời mèo đuổi chuột
Cho đến khi thất bại, những con kiến đã tha thứ cho con bò.
Và:
Hoa càng nở hoa càng thối
Nước đầy nước sẽ cạn.
Toàn bộ bài thơ nhàn là một lời bộc bạch sâu sắc và sâu sắc, khẳng định quan niệm nhàn sống hài hòa với thiên nhiên, giữ cốt cách cao thượng, vượt lên trên danh lợi. Nhàn là triết lý sống chi phối nhiều sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dù đôi khi nó có yếu tố tích cực và tiêu cực, nhưng đó là triết lý sống giúp con người sống đẹp hơn, sống thật hơn với cuộc đời.
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 10:
Các bài giải bài tập lớp 10 sách mới:
nha.jsp
Giải bài tập lớp 10 theo sách mới môn học
Bạn thấy bài viết Phân tích Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất – Ngữ văn lớp 10 có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất – Ngữ văn lớp 10 bên dưới để Blog Giới Trẻ có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: gioitre.biz của Blog Giới Trẻ
Nhớ để nguồn bài viết này: Phân tích Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất – Ngữ văn lớp 10 của website gioitre.biz
Chuyên mục: Văn Học